CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI
Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của CNTB chúng ta có thể khái quát lại sự phát triển của CNTB như sau:
CNTB được hình thành từ thế kỷ 15, 16 được đánh dấu bằng cuộc cách mạng TS Anh và đến thế kỷ 17, 18 thì khẳng định rõ vai trò của PTSX TBCN. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 thế giới nổ ra cuộc cách mạng kỹ thuật lần I trong CN0, lao động chân tay được thay thế bằng máy móc. Vì vậy, NSLĐ tăng cao, làm cho LLSX phát triển nhanh chóng trong khi QHSX vẫn dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân về TLSX. Do đó, mâu thuẫn trong PTSX TBCN có dấu hiệu bùng nổ mạnh mẽ. Nghĩa là giờ đây QHSX không còn phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX nữa. Vì vậy, bắt buộc CNTB phải có sự thay đổi trong QHSX sao cho phù hợp với LLSX. Do đó, CNTB chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn mới – CNTB độc quyền.
Trong giai đoạn độc quyền, CNTB có những biểu hiện mới như: độc quyền, độc quyền nhà nước, độc quyền xuyên quốc gia. Vì vậy người ta gọi chung giai đoạn mới này là CNTB độc quyền hay CNTB hiện đại để phân biệt với giai đoạn tự do cạnh tranh.
XV cuối XIX Sau CTTG2
TDCT CNĐQ CNTB hiện nay
ĐQ
Vậy trong giai đoạn mới này CNTB có những đặc trưng gì khác giai đoạn TDCT. Để hiểu rõ vấn đề này hôm nay chúng ta đi nghiên cứu bài mới:
A. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CƠ BẢN CỦA CNTB HIỆN ĐẠI (CNTB ĐỘC QUYỂN)
I. Sự chuyển biến từ CNTB tự do cạnh tranh thành CNTB độc quyền
Nghiên cứu CNTB thời kỳ tự do cạnh tranh, C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ rằng: tự do cạnh tranh sinh ra tích tụ và tập trung SX và sự tập trung SX phát triển tới một mức nào dó sẽ dẫn tới sự xuất hiện các tổ chức độc quyền. Đó là một vấn đề có tính quy luật của nền kinh tế thị trường tự do TBCN.
CNTB độc quyền xuất hiện vào cuối TK 19, đầu TK 20 do các nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, sự phát triển của LLSX dưới tác động của tiến bộ KH-KT đã làm xuất hiện những ngành SX mới có trình độ tích tụ cao đòi hỏi phải có những hình thức tổ chức kinh tế mới như: điện tử, công nghiệp vũ trụ, hoá dầu, hàng không… Mặt khác, những thành tựu KH – KT làm cho NSLĐ cao, tăng khả năng tích lũy TB, thúc đẩy phát triển SX lớn.
Hai là, cạnh tranh tự do một mặt buộc các nhà TB phải cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích luỹ để chiến thắng trong cạnh tranh, mặt khác làm cho nhiều doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật kém thì bị phá sản hoặc bị các đối thủ mạnh hơn thôn tính, hoặc phải liên kết với các xí nghiệp khác thành những xí nghiệp có quy mô lớn hơn để đứng vững trong cạnh tranh. Vì vậy, xuất hiện một số xí nghiệp TB lớn nắm địa vị thống trị một ngành hay trong một số ngành CN0.
Ba là, những xí nghiệp và công ty lớn tiếp tục cạnh tranh với nhau ngày càng khốc liệt, khó phân thắng bại, vì thế nảy sinh xu hướng thoả hiệp dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền.
Bốn là, khủng hoảng KT đặc biệt là cuộc khủng hoảng 1873, 1898, 1903 làm cho nhiều xí nghiệp nhỏ bị phá sản hoặc phải cải tiến kỹ thuật, hoặc phải xác nhập để thoát khỏi khủng hoảng, những xí nghiệp đứng vững có cơ hội vươn lên khả năng tập trung SX ngày càng lớn, do đó thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung TB và tích tụ, tập trung SX.
Trong thời kỳ TDCT ở bất kỳ ngành SXKD. Chạy theo lợi nhuận một cách mù quáng, chính là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế, mà phổ biến là khủng hoảng thừa dưới CNTB. Khủng hoảng kinh tế làm phá sản hàng loạt các doanh nghiệp TBCN, đẩy nhanh quá trình tập trung tư bản, hình thành những tư bản cá biệt lớn hơn thông qua các hoạt động sáp nhập hoặc thôn tính các tư bản nhỏ, lẻ.
Các cuộc khủng hoảng kinh tế lớn trong các năm 1873, 1898, 1903 … diễn ra ở hầu hết các nước TBCN phát triển lúc đó trong điều kiện kinh tế thị trường chứng khoán đã phát triển làm cho tích tụ và tập trung TB diễn ra với một tốc độ và quy mô lớn hơn rất nhiều so với các giai đoạn trước. Kết quả là làm xuất hiện những công ty TB khổng lồ giữ địa vị độc quyền trong những ngành chủ chốt, thậm chí trong nền kinh tế của một nước TB lớn. Đó cũng là cái mốc đánh dấu sự kết thúc giai đoạn tự do cạnh tranh trong phương thức SX TBCN.
Năm là, sự phát triển của tín dụng TBCN trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy sự tập trung SX, nhất là hình thành các công ty cổ phần tạo ra khả năng xuất hiện các tổ chức độc quyền.
Tất cả các nguyên nhân đó dẫn đến sự ra đời của các tổ chức độc quyền và CNTB chuyển từ giai đoạn TDCT sang giai đoạn độc quyền.
Địa vị độc quyền trong nền KT khi nhà nước tư sản chưa can thiệp trực tiếp vào KT, cho phép các tổ chức ĐQ tự do làm mưa, làm gió trên thị trường, tạo nên cơ sở cho những nhận thức sai lầm về giai đoạn phát triển này của CNTB. Để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác nói chung và KTCT Mác – Lênin nói riêng, V.I.Lênin đã tập trung nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận KT quan trọng, phát triển KTCT mác xít trong những điều kiện lịch sử mới của CNTB: giai đoạn đế quốc chủ nghĩa (hay giai đoạn độc quyền của CNTB - CNTB hiện đại) tức là giai đoạn phát triển cao nhất của phương thức SX mới. Lý luận của V.I.Lênin về chủ nghĩa đế quốc bao gồm hàng loạt những phân tích, đánh giá các vấn đề về KT, CT, XH ở các nước TBCN phát triển, nhất là lúc bấy giờ, trên cơ sở đó là việc vạch rõ những đặc trưng kinh tế cơ bản của CNTB trong giai đoạn thống nhất của các tổ chức ĐQ.
Sống trong thời kỳ CNTB ĐQ hình thành và phát triển vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào điều kiện lịch sử đó, V.I.Lênin đã chứng minh rằng, CNTB đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đồng thời Người nêu ra 5 đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.
II. Những đặc điểm kinh tế của CNTB hiện đại
1. Tích tụ, tập trung sản xuất và sự xuất hiện các tổ chức độc quyền
a. Tập trung SX
Cơ sở của tập trung sản xuất là tập trung TB. Muốn có tập trung TB thì phải có tích tụ TB. Vậy thì tích tụ TB là gì? Tập trung TB là gì?
- Tích tụ TB là quá trình làm tăng quy mô của TB cá biệt bằng việc TB hoá giá trị thặng dư nghĩa là biến một phần giá trị thặng dư thành TB bất biến phụ thêm và TB khả biến phụ thêm để mở rộng SX. Tích tụ TB là kết quả của quá trình tích luỹ TB.
Như vậy quá trình tích tụ TB làm cho quy mô của TB cá biệt tăng lên, do đó làm cho quy mô của TB xã hội tăng lên.
- Tập trung TB là quá trình làm tăng TB cá biệt bằng cách hợp nhất nhiều TB cá biệt thành một TB cá biệt khác lớn hơn. Hay nói cách khác đó là quá trình sát nhập vốn của nhiều TB vừa và nhỏ để hình thành lên TB có vốn lớn hơn.
Như vậy, quá trình tập trung TB làm cho quy mô của TB cá biệt tăng lên nhưng quy mô của TB xã hội không thay đổi. Tập trung SX là sự thống nhất giữa tích tụ và tập trung TB.
* Tập trung SX là gì?
Tập trung SX là sự mở rộng quy mô SX trên cơ sở tập trung các yếu tố SX. Hay nói cách khác, tập trung SX là quá trình tăng quy mô SX bằng cách sát nhập nhiều xí nghiệp nhỏ lại thành xí nghiệp có quy mô lớn.
VD: TB A có quy mô giá trị 5 triệu USD
TB B có quy mô giá trị là 7 triệu USD
TB C có quy mô giá trị là 3 triệu USD
Để mở rộng SX ba nhà TB đã này sát nhập với nhau hình thành nên TB cá biệt ABC có quy mô giá trị là 15 triệu USD
Trong những năm gần đây làn sóng sát nhập diễn ra rất sôi động khắp thế giới: chẳng hạn năm 1996 toàn TG có 22.729 vụ sáp nhập, hiện nay con số đó đã lên tới gần 40 nghìn vụ sát nhập. Quy mô sát nhập ngày càng lớn.
VD: Năm 1908 công ty Morgan mua công ty gang thép Carnegie và hơn 20 công ty khác để thành lập tập đoàn Morgan với giá 1,4 tỷ USD. Hiện nay tập đoàn này có tới 69 công ty thành viên với tổng số vốn khoảng 70 tỷ USD.
Năm 1998 ngân hàng thương mại lớn nhất của Mỹ là Citi copr sát nhập với Travelers Group với trị giá gần 70 tỷ USD
12/1998 công ty dầu lửa Mobil và Esso sát nhập với trị giá 238 tỷ USD
Ngày nay, làn sóng sát nhập trở thành trào lưu mạnh mẽ, nếu năm 1992 số cuộc sát nhập của các công ty xuyên quốc gia là 1.800 cuộc với số tiền giao dịch là hơn 70 tỷ USD thì đến năm 1999 con số đó đã tăng lên nhiều lần với tổng giá trị các cuộc sát nhập lên tới con số kỷ lục là 2.200 tỷ USD, tăng 165% so với năm 1998.
- Vấn đề là do đâu mà có tập trung sản xuất ?
Diễn giảng: Theo Lênin: “Tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung SX và sự tập trung SX này khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền”. Điều này được thực tế chứng minh rất rõ:
Vào cuối thế kỷ 19 đầu Thế kỷ 20, do sự phát triển của KHKT làm cho LLSX phát triển mạnh mẽ. Mặt khác, dưới sự tác động của hàng loạt các quy luật KT, đặc biệt là quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung-cầu làm cho các xí nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn hơn. Các xí nghiệp này tiếp tục cạnh tranh với nhau và một số xí nghiệp lớn này lại bị phá sản, hình thành một số ít các xí nghiệp có quy mô lớn hơn nữa. Quá trình này lại tiếp tục diễn ra và dẫn đến việc hình thành một số xí nghiệp khổng lồ. Các xí nghiệp này tiếp tục cạnh tranh với nhau nhưng không ai thắng nổi ai nên họ có xu hướng thoả hiệp với nhau, liên kết cùng SX. Do đó, thúc đẩy tập trung SX.
Kết quả của tập trung SX là đã hình thành ra các tổ chức TB độc quyền. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng: độc quyền được sinh ra từ cạnh tranh tự do. Nhưng tại sao tập trung SX lại dẫn tới độc quyền
Tóm lại: Tập trung SX dẫn tới độc quyền vì:
- Do tập trung SX nên trong mỗi ngành chỉ có một số ít XN kếch xù nắm đại bộ phận SX của ngành đó nên chúng dễ dàng thoả thuận, liên minh với nhau.
- Do quy mô của XN lớn, cấu tạo hữu cơ của các XN này rất cao. Do đó việc dịch chuyển TB trở lên khó khăn hơn, cạnh tranh tự do khó khăn hơn. Vì vậy, chúng liên kết lại với nhau hình thành các tổ chức ĐQ.
Vậy tổ chức độc quyền là gì?
Tổ chức độc quyền: là sự liên minh giữa những nhà TB nắm phần lớn việc SX và tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó, nhằm mục đích kiểm soát thị trường, nguồn nguyên liệu để thu lợi nhuận độc quyền cao.
VD: Tổ chức độc quyền IBM của Mỹ sản xuất hơn 70% số máy tính điện tử của thế giới TBCN.
Ở Đức, những xí nghiệp lớn chỉ chiếm 0,9% trong tổng số các xí nghiệp nhưng lại chiếm 39,4% tổng số lao động; 75,3% sức hơi nước; 77,2% điện lực … các xí nghiệp này chiếm phần lớn sản lượng hàng hóa làm ra của nước Đức.
Ở nước ta hiện nay có một số ngành như: Điện lực, cấp nước sạch thành phố … vẫn còn mang tính chất độc quyền. Nhưng về bản chất thì khác hẳn các tổ chức độc quyền TBCN.
Diễn giảng: Tổ chức ĐQ là hình thức vận động mới của QHSX TBCN, trong đó sở hữu TB mang tích chất tập thể chứ không chỉ là tư nhân thuần tuý, phương pháp quản lý SXKD cũng như phân phối sản phẩm có những bước tiến mới. Các nhà TB liên minh với nhau trong dưới nhiều hình thức mà hình thức cơ bản là góp vốn để lập thành một TB tập thể khổng lồ, số TB này được gọi là TB độc quyền, các nhà TB sở hữu vốn TB đó gọi là các nhà TB độc quyền. Với số vốn khổng lồ đó các nhà TBĐQ dễ dàng đánh bại các nhà TB khác, thực hiện sự thống trị về SX, kiểm soát thị trường, thao túng về giá cả và kiếm được lợi nhuận độc quyền cao.
Các tổ chức ĐQ ra đời, tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ một ngành (đơn ngành) hay nhiều ngành (đa ngành). Đó là các hình thức sau:
b. Những hình thức độc quyền cơ bản
+ Liên kết ngang (đơn ngành)): Có các hình thức sau:
- Cácten: (Tiếng Pháp là Cartel có nghĩa là đồng minh hoặc hiệp định).
Là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà TB thông qua hình thức ký hiệp nghị thoả thuận với nhau về giá cả, về kỳ hạn trả tiền, về phân chia thị trường tiêu thụ, về sản lượng hàng hoá…
VD: Các nhà TB tham gia vào Cácten phải thỏa thuận với nhau về giá bán và thị trường chẳng hạn: ở Miền Bắc có một Các ten sản xuất bia do 3 nhà TB thoả thuận với nhau:
Anh A sản xuất bia Hà Nội bán ở địa bàn quanh Hà Nội với giá 8000đ/chai.
Anh B sản xuất bia Samigeo bán ở Hải Phòng với giá 8000đ/ chai.
Anh C sản xuất bia tiger bán ở Hải Dương với giá 8000đ/chai…
Hình thức này phát triển nhiều nhất ở Đức. Vì vậy Đức thường được gọi là “nước của các Cartel”.
VD: Năm 1857 xuất hiện Cácten đầu tiên, 1896 có 250 Cácten, 1905 có 385 Cácten, 1911 tăng lên đến 600 cácten và trở thành cơ sở kinh tế của toàn bộ nền kinh tế Đức.
Đây là hình thức ĐQ mang tính sơ khai, đơn giản. Các nhà TB vẫn độc lập với nhau trong việc SX và LT. Họ chỉ liên kết với nhau 1 hiệp nghị về thị trường tiêu thụ, giá bán hàng hóa, giá mua nguyên vật liệu, …Vì vậy họ chưa gắn bó chặt chẽ với nhau, dễ dẫn đến tình trạng các nhà TB không làm đúng ký kết và thường vi phạm hợp đồng. Do đó, hình thức này dễ bị phá vỡ và thay vào đó là 1 tổ chức độc quyền cao hơn, ch¾c ch¾n h¬n.
- Xanhđica: (Tiếng Pháp là Syndicat nghĩa là tổ hợp) Đây là hình thức phát triển cao hơn, các nhà TB tham gia vào Xanhđica bầu ra một ban quan trị điều hành việc mua bán, giá cả, thị trường.
Các xí nghiệp tham gia Xanhđica vẫn giữ độc lập về SX, chỉ mất độc lập về LT: mọi việc mua - bán do một ban quản trị chung của Xanhđica đảm nhiệm. Mục đích của Xanhđica là thống nhất đầu mối mua và bán để bán hàng với giá đắt và mua nguyên liệu với giá rẻ nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao. Như vậy, hình thức này đã phát triển cao hơn, ổn định, chặt chẽ hơn so với Cácten. Hình thức này phát triển mạnh nhất ở Nga, ở Đức, hầu hết các Cartel đều phát triển lên thành Xanhđica.
VD: ở Miền Trung có một Xanhđica sản xuất đường. Họ thành lập ra một ban quản trị điều hành việc mua mía ở đâu? và bán đường ở đâu? với giá là bao nhiêu? Chẳng hạn, ban quản trị quyết định chỉ mua nguyên liệu mía ở các tỉnh miền trung và bán đường trên toàn quốc với giá là 6000đ/kg.
Như vậy, tham gia vào Xanhđica, các nhà TB rất có lợi còn người sản xuất nguyên liệu và người tiêu dùng thì bị thiệt.
Tơrớt: (Tiếng Anh là Trust) Thực chất của Tơrớt là các công ty cổ phần, các nhà TB trở thành các cổ đông góp vốn và thu lợi tức cổ phần. Việc SX và LT hàng hóa do ban quản trị và giám đốc điều hành.
Như vậy, người tham gia vào Tơrớt mất hết độc lập cả trong SX lẫn trong LT. Họ trở thành cổ đông thu lợi tức cổ phần.
Đây là hình thức t/c độc quyền hoàn thiện vì tất cả hoạt động của các nhà TB bây giờ (SX cái gì, bán ở đâu, giá bao nhiêu?) căn cứ vào quy định của hội đồng quản trị. Tơrớt là hình thức tổ chức độc quyền mang tính bản chất nhất, cốt lõi nhất và ổn định nhất vì nó khắc phục được những thiếu sót của các hình thức độc quyền khác. Đây là hình thức đánh dấu bước ngoặt của QHSX TBCN, sở hữu tư nhân chuyển thành sở hữu tập thể.
Tuỳ thuộc vào trình độ tập trung và tích tụ TB trong những điều kiện cụ thể, những hình thức độc quyền nói trên có mức độ phổ biến khác nhau giữa các nước. Chẳng hạn: Cácten là hình thức phổ biến nhất ở Đức; Xanhđica thì ở Pháp, Nga; Tờ rớt là ở Mỹ.
VD: 1900 ở Mỹ có185 Tơrớt, 1907 lên tới 250 Tơrớt
Như vậy, Cácten, Xanhđica, Tơrớt là các tổ chức độc quyền trong cùng một ngành, đó là biểu hiện của sự liên kết ngang.
+ Liên kết dọc (liên kết đa ngành):
Quá trình phát triển kinh tế TBCN đã tạo nên một sự liên kết dọc, tức là liên kết đa ngành, mỗi thành viên có thể là các xanhđica, tơrớt của các ngành khác nhau liên kết với nhau về kinh tế, kỹ thuật. Hình thức liên kết đó tạo nên một hình thức độc quyền mới gọi là côngxoocxiom.
- Côngxoócxiom (Consotium): Là hình thức độc quyền liên minh, liên kết giữa các xí nghiệp của nhiều ngành khác nhau và có liên quan với nhau về kinh tế và kỹ thuật, do một tập đoàn tài chính khống chế, điều hành. Thông thường đứng đầu, điều hành một côngxoócxiom là một ngân hàng độc quyền lớn.
VD: Nhà TB sản xuất giấy có thể liên kết với nhà TB khai thác gỗ, nhà sản xuất đường….
* Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, độc quyền đã có những biểu hiện mới cả về hình thức, cơ cấu và cơ chế.
c. Biểu hiện mới của độc quyền
Về hình thức: Do sự phát triển của LLSX, khoa học, công nghệ, đã diễn ra quá trình hình thành những sự liên kết giữa các độc quyền theo cả hai chiều: dọc và ngang ở trong và ngoài nước. Trên cơ sở những sự liên kết đó, ra đời những hình thức tổ chức độc quyền mới. Đó là Consơn, Côngơlômêrết. (Đây là biểu hiện mới của tổ chức độc quyền).
- Consơn: Đó là tổ chức độc quyền đa ngành, thành phần của nó có hàng trăm xí nghiệp có quan hệ với những ngành khác nhau và được phân bố ở nhiều nước.
Trong số 500 công ty lớn nhất của Mỹ có tới 94% là loại Consơn vào những năm cuối thế kỷ XX so với 49% năm 1949, điển hình về tính đa ngành là Consơn GMC (General Motor cooperation). Năm 1997 GMC có doanh số là 136,5 tỉ USD. Ngoài ngành sản xuất ôtô chiếm từ 80 à90 % tổng số giá trị sản phẩm, GMC còn thâu tóm những xí nghiệp SX đồ điện thông dụng như mô tơ, tua bin, đầu máy điêzen, máy giặt, máy hút bụi và một số mặt hàng khác.
Một thí dụ khác, công ty ITT của Mỹ không chỉ bành trướng trong ngành thông tin liên lạc mà còn thâm nhập vào ngân hàng, khai thác đáy biển, vũ trụ, bảo hiểm, báo chí, khách sạn, thực phẩm v.v…
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến độc quyền đa ngành là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các ĐQ và sự biến động mau lẹ của thị trường thì việc kinh doanh chuyên môn hoá hẹp dễ bị phá sản; trái lại, việc kinh doanh tổng hợp tạo điều kiện di chuyển vốn vào những lĩnh vực có lợi nhuận cao, lấy lãi ở ngành hàng này bù cho những ngành hàng khác gặp khó khăn. Bên cạnh đó, dưới tác động của CM KH-CN, những ngành lạc hậu cần gải tỏa vẫn chưa giải tỏa được, trong khi, để tồn tại vẫn phải phát triển thêm những ngành mới, làm cho cơ cấu tập đoàn cứ phình to ra và bao gồm nhiều ngành khác nhau.
Bên cạnh đó, hình thức ĐQ đa ngành còn là kết quả của sự chuyển hoá, thay thế các Tờ rớt đối phó với Luật chống ĐQ ở hầu hết các nước TBCN.
- Côngơlômêrết: (Conglomeate): Là một tổ chức độc quyền được hình thành trên cơ sở liên kết và thôn tính nhiều TB ở nhiều ngành SX khác nhau hình thành một khối kinh tế đặt dưới sự kiểm soát về tài chính và quản lý của một nhóm độc quyền.
Là hình thức tổ chức ĐQ xuất hiện từ những năm 1960. Đó là sự kết hợp vài chục những hãng vừa và nhỏ không có bất kỳ sự liên quan nào về SX hoặc dịch vụ cho SX. Mục đích chủ yếu của các Côngơlômêrết là chiếm đoạt lợi nhuận bằng kinh doanh chứng khoán. Do vậy phần lớn các Côngơlômêrết dễ bị phá sản nhanh hoặc chuyển thành các Consơn. Tuy nhiên, một bộ phận các Côngơlômêrết vẫn tồn tại vững chắc bằng cách kinh doanh phương tiện tài chính trong những điều kiện thường xuyên biến động của nền kinh tế thế giới.
Về cơ cấu: cũng do tác động của cuộc CM KH và công nghệ, cơ cấu độc quyền có sự thay đổi. Đó là sự liên kết của các hãng vừa và nhỏ với các hãng lớn trong một tổ chức ĐQ.
Chẳng hạn, ở các nước TB phát triển là một số xí nghiệp vừa và nhỏ chiếm hơn 90% tổng số hãng có đăng ký ở các nước tư bản phát triển. Trong những ngành mới như tin học, chất dẻo, điện tử, các hãng nhỏ chiếm tỷ lệ tuyệt đối (ở Mỹ các hãng nhỏ chiếm 90% tổng số hãng trong lĩnh vực này).
VD: Tại Mỹ vào những năm 50 của TK 20 chỉ có 10 vạn công ty vừa và nhỏ. Sau những năm 80, mỗi năm tăng thêm 80 vạn công ty. Chỉ riêng năm 1995 đã có tới 3,5 triệu XN0 chủ yếu là XN0 vừa và nhỏ. Tính đến nay toàn nước Mỹ có tới 20 triệu xí nghiệp trong đó 18 triệu xí nghiệp là nhỏ (chiếm 90%).
Nhật Bản, các xí nghiệp vừa và nhỏ luôn giữ vai trò to lớn trong mọi giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Các xí nghiệp này chiếm trên 90% tổng số xí nghiệp ở Nhật, thu hút 74% tổng số lao động, sản xuất gần 50% sản lượng và cung cấp gần 40% hàng hoá xã hội của Nhật. Có những ngành như chế tạo thì xí nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 99,5% tổng số xí nghiệp.
Tuy nhiên các xí nghiệp vừa và nhỏ có mối quan hệ chặt chẽ với các xí nghiệp lớn hơn theo cơ chế kết cấu nền kinh tế “hai tầng”. Tầng trên là các tổ chức độc quyền nắm giữ tài chính, kỹ thuật (10%), còn tầng dưới là các xí nghiệp vừa và nhỏ (90%) làm khu đệm, chuyên gia công, lắp ráp, nghiên cứu, chế tạo thử sản phẩm mới cho các xí nghiệp lớn.
Như vậy, thực chất là xu hướng độc quyền vẫn chi phối nền kinh tế.
Có người gọi hiện tượng trên là “phi tập trung hoá” và cho rằng luận điểm của V.I.Lênin về tích tụ và tập trung dẫn tới ĐQ không còn đúng nữa. Thực ra, đó chính là biểu hiện của ĐQ dưới một dạng mới. Thông thường, các hãng nhỏ thiếu vốn kinh doanh, thiếu thông tin về thị trường và tiến bộ khoa học - kỹ thuật, thiếu chuyên gia có trình độ cao nên phải lệ thuộc vào các Consơn hay các Côngơlômêrết về những mặt nói trên. Sự kiểm soát của độc quyền được thực hiện dưới những hình thức mới thông qua quan hệ hợp tác giữa TB độc quyền lớn với các hãng vừa và nhỏ. Trong khi duy trì tính độc lập của mình về tư các pháp nhân, về sở hữu, các hãng nhỏ phụ thuộc vào các ĐQ lớn về điều kiện vay vốn, tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm hoặc tiêu thụ sản phẩm. Thông qua cái gọi là quan hệ hợp tác, các ĐQ lớn đã chiếm quyền sở hữu phát minh, sáng chế ngay từ lức mới chỉ là những ý tưởng và đoạt những phát minh nhiều hứa hẹn mà không phải chi phí bổ sung lớn. Trong quan hệ hợp tác, các hãng nhỏ và vừa ở tình thế bắt buộc vì lý do tài chính và kỹ thuật, còn các độc quyền lớn có khả năng lựa chọn bạn hàng phù hợp với kiểm soát SX nói chung và tiến bộ khoa học - kỹ thuật nói riêng.
- Độc quyền cũng xuất hiện cả ở những nước đang phát triển. Đó là kết quả của sự thâm nhập của các công ty xuyên quốc gia vào các nước này. Thông qua mối quan hệ hợp tác liên doanh, liên kết của các công ty nước chủ nhà với các công ty xuyên quốc gia làm cho các công ty chủ nhà có đủ điều kiện chi phối SXKD của một ngành nào đó và trở thành những tổ chức ĐQ.
Về cơ chế: cơ chế ĐQ (nhất là ĐQ xuyên quốc gia) ngày càn bị chi phối bởi cơ chế thị trường cạnh tranh và cơ chế điều tiết của CNTB ĐQ nhà nước. Bằng các chính sách điều tiết (kể cả Luật chống ĐQ) đã làm giảm hiệu lực của cơ chế ĐQ, buộc nó phải tuân thủ cơ chế cạnh tranh. Tuy nhiên, đối với các ĐQ xuyên quốc gia thì cơ chế này trong chừng mực vẫn còn phát huy tác dụng.
Như vậy, ĐQ do cạnh tranh sinh ra. ĐQ ra đời không thủ tiêu cạnh tranh, trái lại nó làm cho cạnh tranh gay gắt và trên quy mô rộng lớn hơn, không chỉ giữa các tổ chức ĐQ với ngoài ĐQ mà cả giữa các tổ chức ĐQ với nhau. Độc quyền đi vào mọi ngành, mọi lĩnh vực SXKD, nó nắm các mạch máu kinh tế nên có sức mạnh to lớn. Vì vậy, các tổ chức ĐQ định ra giá cả ĐQ cao hơn giá cả SX với những hàng hóa mà họ bán ra và giá cả ĐQ thấp hơn dưới giá cả SX đối với những hàng hóa mà họ mua vào, qua đó họ thu được lợi nhuận ĐQ. Do đó, giá cả ĐQ = chi phí SX + lợi nhuận ĐQ cao. Như vậy, trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, quy luật (m) biểu hiện thành quy luật ĐQ cao (lợi nhuận ĐQ cao = lợi nhuận bình quân + một số lợi nhuận khác do sự thống trị của các tổ chức ĐQ trong SX và LT).
2. Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính
a. Nguồn gốc và bản chất tư bản tài chính
* Nguồn gốc:
- Cùng với quá trình tích tụ và tập trung SX trong CN0 cũng diễn ra quá trình tích tụ và tập trung TB trong Ngân hàng dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền ngân hàng.
(Khi SX trong ngành công nghiệp tích tụ và tập trung ở mức độ cao, thì các ngân hàng nhỏ không đủ tiềm lực và uy tín cho công việc kinh doanh của các hãng công nghiệp nữa. Các hãng này tìm đến các ngân hàng lớn hơn phù hợp với các điều kiện tài chính và tín dụng của mình. Trước tình hình đó, các ngân hàng nhỏ phải tự sáp nhập vào các ngân hàng mạnh hơn hoặc phải chấm dứt sự tồn tại của mình trước quy luật khốc kiệt của cạnh tranh. Từ trong quá trình này, các tổ chức ĐQ ngân hàng ra đời, “trở thành những tổ chức độc quyền vạn năng, sử dụng được hầu hết tổng số TB tiền tệ của toàn thể các nhà TB và tiểu chủ, cũng như phần lớn những TLSX và những nguồn nguyên liệu của một nước nhất định hay của cả một loạt nước”) Độc quyền Ngân hàng là những hình thức tổ chức liên minh của các TB ngân hàng nhằm chi phối các hoạt động tài chính, tín dụng, ngân hàng để thu lợi nhuận ĐQ cao.
- Sự hình thành các tổ chức ĐQ ngân hàng gắn liền với vai trò mới của ngân hàng. Từ chỗ là trung tâm phát hành và quản lý tiền tệ, là trung tâm thanh toán, ngân hàng có thêm chức năng kiểm soát và giám sát các hoạt động kinh tế. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng có thể nắm rất chắc tình hình hoạt động của các doanh nghiệp và chi phối hoạt động đó. Như vậy, TB ĐQ ngân hàng có quyền lực hết sức to lớn, chi phối các hoạt động KT-XH.
(Với mạng lưới dày đặc những chi nhánh lan rộng và bao phủ nhanh chóng khắp các lĩnh vực kinh tế và khắp các địa bàn, ĐQ ngân hàng đã biến hàng ngàn, hàng vạn những doanh nghiệp tản mạn thành một hệ thống tập trung mà ngân hàng là trung tâm thần kinh. Lúc đó một hình thức tập trung SX ra đời – hình thức gắn kết các ngành công nghiệp đa dạng lại bằng chất keo tài chính và cũng từ đó, những TB riêng rẽ hình thành nên TB tập thể. Đây là quá trình cơ bản của sự chuyển biến tư bản thành chủ nghĩa đế quốc tư bản)
- Giữa TB ĐQ CN0 và ĐQ ngân hàng có mối quan hệ KT mới. Mqh rất gắn bó với nhau, lợi ích của chúng đan xen, phụ thuộc vào nhau. Do đó đã hình thành nên một loại TB mới gọi là TB tài chính.
Các TBCN0 cần có 1 khoản vốn lớn để SXKD cho nên họ đã phải vay vốn của các ngân hàng ĐQ mà các ngân hàng nhỏ không đáp ứng được, mặt khác các TB độc quyền trong ngân hàng thu được lợi nhuận ĐQ khi cho ĐQ công nghiệp vay. Chính vì vậy, lợi ích của chúng gắn bó với nhau, hai bên đều quan tâm đến hoạt động của nhau và tìm cách thâm nhập vào nhau. (Với tư cách là người cung cấp tín dụng, ngân hàng đưa người của mình vào các Hội đồng giám sát của hãng. Tiến sâu thêm nữa, ngân hàng xuất vốn mua cổ phiếu của các công ty làm ăn phát đạt và cử người của mình vào Hội đồng quản trị nhằm kiểm soát và chi phối trực tiếp những doanh nghiệp đó. Trước sự khống chế và chi phối ngày càng chặt chẽ của ngân hàng, một quá trình xâm nhập tương ứng của TB công nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra đồng thời. Các công ty công- thương nghiệp lớn sẽ lập ra các ngân hàng chuyên phục vụ cho riêng mình hoặc bỏ vốn mua cổ phiếu của các ngân hàng để chi phối hoạt động của ngân hàng. Quá trình xâm nhập vào nhau giữa ngân hàng và các doanh nghiệp công nghiệp là một bước phát triển hơn nữa của quá trình tích tụ và tập trung SX diễn ra dưới động lực của việc chạy theo lợi nhuận ĐQ cao. Sự quyện vào nhau, dung hợp với nhau về lợi ích KT đã nảy sinh một dạng tư bản mới, đó là TB tài chính.
“Sự tập trung sản xuất, các tổ chức độc quyền sinh ra từ sự tập trung đó; sự hợp nhất hay sự hoà vào nhau giữa ngân hàng và công nghiệp – đó là lịch sử phát sinh của tư bản tài chính và là nội dung của khái niệm tư bản tài chính”. Vậy, TB tài chính là sự dung hợp hay thâm nhập lẫn nhau giữa các tổ chức độc quyền công nghiệp và tổ chức độc quyền ngân hàng
* Bản chất:
- Do nắm được cả TBCN0 và TB tiền tệ, TB tài chính có thể thống trị từ một ngành đến nhiều ngành và cuối cùng là toàn bộ nền KT QDân. Nó xác lập được sự thống trị và chế độ độc quyền vững chắc hơn, bộc lộ đủ bản chất hơn.
- TB tài chính ra đời là do tư bản sở hữu và tư bản chức năng tách rời cao độ. Sự tách rời này là cơ sở cho việc ra đời các loại chứng khoán mới và mở rộng thị trường cho vay. Nó không chỉ dẫn đến sự hình thành những kẻ thực lợi mà còn tạo ra trong nền kinh tế thế giới những nhà nước thực lợi – đây là bước phát triển và chín muồi hơn nữa của QHSX TBCN.
- Trong TB tài chính, có một nhóm nhỏ gồm những nhà TB giàu có nhất, có thế lực nhất được gọi là bọn đầu sỏ tài chính.
Là TB tài chính được nhân cách hoá, bọn đầu sỏ tài chính có đầy đủ sức mạnh và bản chất mà TB tài chính truyền cho. Chúng trực tiếp nắm và khống chế toàn bộ sự phát triển của nền KTQD. Từ quyền lực kinh tế, đầu sỏ tài chính thâu tóm cả quyền lực chính trị, xã hội, biến bộ máy nhà nước thành công cụ phục vụ cho lợi ích của mình.
b. Hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của các TB tài chính
* Hình thức tổ chức: Do sở hữu tập thể, TB tài chính không tồn tại dưới hình thức riêng lẻ, mà hình thành nên các nhóm hay các tập đoàn thống trị ở các lĩnh vực khác nhau của nền KT-XH. Tập đoàn TB tài chính bao gồm hàng loạt công ty công, thương nghiệp độc quyền hoạt động dựa vào nguồn tài chính chủ yếu do một số ngân hàng lớn cung cấp. Các ngân hàng lớn này chịu sự điều tiết, khống chế và chi phối của một ngân hàng trung tâm. Ngân hàng này gọi là ngân hàng khống chế. Các tập đoàn tài chính chỉ cần thông qua ngân hàng khống chế mà điều tiết sự vận động của tất cả các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn.
* Cơ chế thống trị: Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình đối với nền kinh tế bằng chế độ tham dự.
- Chế độ tham dự là chế độ kiểm soát của một công ty lớn nhất với tư cách là một công ty gốc (hay là công ty mẹ) đối với những công ty khác, dựa trên cơ sở nắm số cổ phiếu TB tài chính, số cổ phiếu khống chế thường là trên 50% tổng số cổ phiếu của công ty gốc. Tỷ lệ này giảm xuống khi lượng các công ty trong tập đoàn mở rộng hay giá trị của một cổ phiếu giảm xuống. Khi đã khống chế và điều tiết được công ty gốc, các nhà tư bản tài chính sử dụng vốn của công ty này mua cổ phiếu khống chế ở các công ty phụ thuộc để hình thành các công ty con. Sau đó lại sử dụng TB của các công ty con mua cổ phiếu khống chế ở các công ty khác, hình thành nên các công ty cháu… Với chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng TB đầu tư nhỏ, các nhà TB độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được một lượng TB lớn hơn gấp nhiều lần. Khi chủ nghĩa đế quốc phát triển đến giai đoạn cao hơn thì vai trò thống trị của TB tài chính trở nên cố định và vững chắc hơn.
Cùng với chế độ tham dự xuất hiện “chế độ uỷ nhiệm”.
- Chế độ ủy nhiệm là do việc phát hành cổ phiểu nhỏ làm cho số lượng cổ đông lớn, phân bố rải rác, vì vậy, thực tế họ không có khả năng đến dự đại hội cổ đông, phải uỷ quyền cho các ngân hàng hay những đại cổ đông khác thay mặt mình ở hội nghị quyết định chiến lược kinh doanh và bầu Hội đồng quản trị của công ty.
Chế độ này cho phép TB tài chính huy động được nguồn vốn rộng lớn từ mọi tầng lớp dân cư của XH, giúp cho nhà TB tài chính với lực lượng TB có hạn của mình có thể khống chế là chi phối được mọi lượng TB lớn hơn nhiều và ngày càng mở rộng: tỷ lệ cổ phiếu khống chế cho phép giảm từ 50% xuống đến 20% và cá biệt chỉ còn thấp hơn 1% (thí dụ, công ty Bôing, MắcĐônan, Đônglaxơ… Số lượng TB của họ trong tổng số TB chiếm 0,1% - 0,2%).
- Ngoài chế độ tham dự và chế độ uỷ nhiệm, TB tài chính còn sử dụng những thủ đoạn như: lập công ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán có giá ở sở giao dịch, đầu cơ ruộng đất… để thu được lợi nhuận độc quyền cao. Dưới sự thống trị của bọn tại phiệt, đã nảy sinh và hình thành nhiều xu thế cực đoan và quân phiệt như: Chạy đua vũ trang, gây chiến tranh xâm lược để áp bức và nô dịch các nước đang phát triển và chậm phát triển. Chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt và các thức chủ nghĩa phản động khác đều là sản phẩm của nền thống trị của TB tài chính.
c. Những biểu hiện mới của TB tài chính
- Do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng KHKT, trong nền KT TBCN đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới, đặc biệt là các ngành thuộc “phần mềm” như dịch vụ, bảo hiểm… ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Thích ứng với sự biến đổi, hình thức thức tổ chức và cơ chế thống trị của TB tài chính đã thay đổi. Sự thay đổi diễn ra ngay trong quá trình liên kết và xâm nhập vào nhau giữa TB ngân hàng và TBCN0. Nếu trước kia mối liên kết giữa TB ngân hàng và TBCN0 là chủ yếu và bao trùm quá trình hình thành các tập đoàn tài chính, thì ngày nay phạm vi liên kết và xâm nhập vào nhau được mở rộng ra nhiều ngành, do đó các tập đoàn TB tài chính thường tồn tại dưới hình thức một tổ hợp đa dạng kiểu công – nông – thương – tín - dịch vụ hay CN0 quân sự, dịch vụ quốc phòng…
- TB tài chính mở rộng thị trường chứng khoán và tham gia vào việc đẩy mạnh hoạt động trong các sở giao dịch trên thị trường trong và ngoài nước. Vai trò kinh tế và chính trị của TB tài chính ngày càng tăng không chỉ trong khuôn khổ quốc gia mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nước khác trên TG.
- Cơ chế thị trường của TB tài chính cũng thay đổi, cổ phiếu có mệnh giá nhỏ được phát hành rộng rãi. Khối lượng cổ phiếu tăng lên, nhiều tầng lớp dân cư mua cổ phiếu, kéo theo đó là chế độ tham dự được bổ sung bằng chế độ ủy nhiệm, nghĩa là những đại cổ đông được ủy nhiệm thay mặt cho đa số cổ đông ít cổ phiếu quyết định phương hướng hoạt động của công ty cổ phần.
- Để vươn ra địa bàn thế giới và thích ứng với quá trình quốc tế hoá đời sống KT, các tập đoàn TB tài chính đã thành lập các ngân hàng đa quốc gia và xuyên quốc gia, thực hiện việc điều tiết các Consơn và Côngơlômêrết, xâm nhập vào nền KT của các quốc gia khác. Sự ra đời của các trung tâm tài chính của TG như: Nhật Bản, Mỹ, Đức, Hồng Kông, Xingapo… là kết quả hoạt động của các tập đoàn tài chính quốc tế. Dù biển hiện dưới hình thức nào, cơ chế thống trị có sự thay đổi ra sao, thì bản chất của TB tài chính cũng không thay đổi.
3. Xuất khẩu tư bản
a. Bản chất của xuất khẩt tư bản
Diễn giảng: Trước ĐQ, chủ yếu là XK hàng hóa. Chúng ta biết rằng XK hàng hóa là đem hàng hóa ra nước ngoài bán thông qua con đường ngoại thương nhằm thực hiện giá trị ở nước ngoài và trên cơ sở đó thu được giá trị m. Đến lúc này, ngoài XK hàng hóa, trong CNTB còn có XK TB. Vậy XK TB là gì?
Xuất khẩu TB là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư TB ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu TB.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thể kỷ XX, xuất khẩu TB trở thành tất yếu, vì:
- Trong một ít nước phát triển đã tích luỹ được một khối lượng TB kếch xù và một bộ phận đã trở thành “TB thừa” do không tìm được nơi đầu tư có tỷ suất lợi nhuận cao ở trong nước.
- Khả năng xuất khẩu TB xuất hiện do nhiều nước lạc hậu về nền KT bị lôi cuốn vào sự giao lưu KT TGiới, nhưng rất thiếu TB; ở các nước đó giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ nên tỷ suất lợi nhuận cao.
Đến đây chúng ta có thể so sánh XK hàng hóa với XK TB:
XK hàng hóa - Mang hàng hóa ra nước ngoài bán - Giá trị hàng hóa được tạo ra ngay trong nước. Giai đoạn H’ – T’ được thực hiện ở nước ngoài. - Lợi nhuận thu được do sự trao đổi không ngang giá đối với các nước nhập khẩu | XK TB - Đầu tư TB ra nước ngoài để KD về SX và LT. - Giá trị hàng hóa được tạo ra ở nước ngoài. - Lợi nhuận được tạo ra ngay ở nước được NK. Do đó, lợi nhuận là kết quả của sự bóc lột công nhân các nước được NK TB. |
b. Các hình thức của xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu TB tồn tại dưới nhiều hình thức.
- Nếu xét theo cách thức đầu tư thì xuất khẩu TB biểu hiện dưới hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
+ Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu TB để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ ở chính quốc. Các xí nghiệp mới được hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương hoặc đa phương, nhưng cúng có những xí nghiệp mà toàn bộ số vốn là của một công ty nước ngoài.
Hiện nay, đầu tư trực tiếp diễn ra trên phạm vi quốc tế và tăng nhanh
VD: Năm 1982 FDI trên toàn thế giới là 57 tỷ USD thì 1990 là 202 tỷ, 2000 là 1271 tỷ. Riêng với nước ta đến cuối năm 2003 thu hút được 41 tỷ USD FDI
+ Đầu tư gián tiếp là hình thức xuất khẩu TB dưới dạng cho vay thu lãi. Thông qua các ngân hàng tư nhân hoặc các trung tâm tín dụng quốc gia và quốc tế, các nhà TB cho các nước khác vay vốn theo nhiều hạn định khác nhau để đầu tư vào các đề án phát triển kinh tế. Ngày nay, hình thức này còn được thực hiện bằng việc mua trái phiếu hay cổ phiếu của các công ty ở nước nhập khẩu tư bản.
Hiện nay ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương, Nhật Bản trở thành nước chủ nợ lớn nhất, đã đuổi kịp Mỹ và vượt về nhiều phương diện, đang trở thành nước đứng đầu thế giới về đầu tư vào khu vực Châu á và ASEAN.
VD: Năm 1997, NB đầu tư ODA là 9.358 tỷ USD, trong khi Mỹ là 6.878 tỷ, Pháp: 6.307 tỷ, Đức: 5.857 tỷ .
- Xét theo chủ sở hữu, xuất khẩu TB tồn tại dưới hình thức xuất khẩu TB nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân.
+ Xuất khẩu TB nhà nước là việc nhà nước tư sản lấy từ ngân quỹ của mình đầu tư vào nước nhập khẩu TB, hoặc viện trợ hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự.
Về kinh tế, Xuất khẩu TB nhà nước thường vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư của TB tư nhân. Nhà nước tư sản viện trợ không hoàn lại cho nước nhập khẩu TB để kế kết được những hiệp định thương mại và đầu tư có lợi…
Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản thường nhằm cứu vãn chế độ chính trị thân cận đang bị lung lay hoặc tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lâu dài.
Về quân sự, viện trợ của nhà nước tư sản nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào các khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải đưa quân tham chiến chống nước khác, cho nước cung cấp viện trợ lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình hoặc đơn thuần là để bán vũ khí. Cuộc chiến tranh Trung Đông vừa qua do Mỹ và đồng minh tiến hành chống Irắc là thực tế hùng hồn chứng minh thủ đoạn này của chủ nghĩa đế quốc.
+ Xuất khẩu TB tư nhân là hình thức xuất khẩu TB do TB tư nhân thực hiện. Hình thức này chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia tiến hành thông qua hoạt động đầu tư kinh doanh. Hình thức xuất khẩu TB tư nhân có đặc điểm là nó thường được đầu tư vào các ngành KT có vòng quay TB ngắn và thu được lợi nhuận ĐQ cao. Xuất khấu TB tư nhân là hình thức chủ yếu của xuất khẩu TB, luôn có xu hướng tăng nhanh, chiếm tỷ lệ cao trong tổng TB xuất khẩu. Nếu những năm 70 của thế kỷ XX, xuất khẩu TB tư nhân đạt trên 50% thì đến năm 80 của thế kỷ XX nó đã đạt tỷ lệ 70% trong tổng TB xuất khẩu, thậm chí 90% FDI vào những năm đầu thế kỷ XXI.
- Xét về giác độ hoạt động, xuất khẩu TB thường tồn tại dưới hình thức lập các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia, hoạt động tài chính tín dụng của các ngân hàng hay các trung tâm tín dụng và hoạt động dưới hình thức chuyển giao công nghệ, trong đó hoạt động dưới hình thức chuyển giao công nghệ là biện pháp chủ yếu mà các nước xuất khẩu TB sử dụng để thống trị và khống chế nền KT của các nước nhập khẩu TB.
c. Những biểu hiện mới của xuất khẩu TB
- Thứ nhất, trước kia, luồng TB xuất khẩu chủ yếu từ các nước TB phát triển sang các nước kém phát triển (chiếm tỷ trọng trên 70%) thì những thập kỷ gần đây, đại bộ phận dòng đầu tư chảy qua lại giữa các nước TB phát triển với nhau. Tỷ trọng xuất khẩu giữa 3 trung tâm TBCN tăng nhanh, đặc biệt dòng chảy theo hướng từ Nhật Bản vào Mỹ và Tây Âu, cũng như từ Tây Âu chảy sang Mỹ làm cho hướng xuất khẩu TB vào các nước đang phát triển giảm mạnh (1996 chỉ còn 16,8%, hiện nay khoảng 30%).
Sở dĩ có sự chuyển hướng đầu tư như vậy là do:
+ Cuộc CM KH-KT-Cnghệ đã tạo ra những biến đổi nhảy vọt trong sự phát triển LLSX. Đầu những năm 80 của Tkỷ 20 những ngành mũi nhọn ra đời: công nghệ sinh học, chế tạo vật liệu mới, bán dẫn, vi điện tử, vũ trụ…tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn vì thời gian đầu tạo ra Psiêu ngạch lớn.
+ Các nước TB phát triển đã diễn ra sự biến đổi cơ cấu các ngành SX. Phát triển các ngành có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao và hàm lượng vốn lớn.
+ Việc tiếp nhận kỹ thuật mới chỉ diễn ra ở các nước TB phát triển vì ở các nước đang phát triển không có kết cấu hạ tầng phù hợp, tình hình chính trị kém ổn định, tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu tư không còn cao hơn trước…
(Trước đây, Mỹ là một nước đầu tư lớn nhất thì nay trở thành nước nhận đầu tư lớn nhất. Trước tình hình đó, nhiều nhà lý luận tư sản cho rằng, xuất khẩu TB không còn là thủ đoạn và phương tiện mà các nước giàu dùng để bóc lột các nước nghèo. Theo họ, xuất khẩu TB đã trút bỏ bản chất cũ của nó và trở thành hình thức hợp tác cùng có lợi trong mối quan hệ quốc tế. Sự hợp tác cùng có lợi trong mối quan hệ quốc tế. Sự hợp tác này diễn ra chủ yếu giữa các nước TB phát triển với nhau. Đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm).
Sự biến động về địa bàn và tỷ trọng đầu tư của các nước TB phát triển không làm cho đặc điểm và bản chất của xuất khẩu TB thay đổi, mà chỉ làm cho hình thức và xu hướng của xuất khấu TB thêm phong phú và phức tạp hơn. Một là, sự xuất hiện các ngành mới có hàm lượng KH - KT cao ở các nước TB phát triển bao giờ cũng dẫn đến cấu tạo hữu cơ của TB tăng cao và điều đó tất yếu dẫn đến tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống. Hiện tượng thừa TB tương đối, hệ quả của sự phát triển đó là không tránh khỏi. Hai là, sự phát triển mạnh mẽ những thiết bị và quy trình công nghệ mới đã dấn đến sự loại bỏ các thiết bị và công nghệ ít hiện đại hơn ra khỏi quá trình SX trực tiếp (do bị hao mòn hữu hình và vô hình). Đối với nền KT của thế giới đang phát triển thì những TLSX này rất có ích và vẫn là kỹ thuật mới mẻ. Nhằm mục đích thu lợi nhuận ĐQ cao, các tập đoàn TB độc quyền đưa các thiết bị đó sang các nước đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công nghệ. Rõ ràng, khi CNTB còn tồn tại thì xuất khẩu TB từ các nước TB phát triển sang các nước đang phát triển là điều không tránh khỏi. Xét trong một giai đoạn phát triển nhất định, có thể diễn ra sự thay đổi tỷ trọng TB đầu tư vào khu vực này hay khu vực khác của thế giới, nhưng phân tích một thời kỳ dài hơn ở quy mô thế giới cho thấy, xuất khẩu TB vẫn là vũ khí chủ yếu mà TB độc quyền sử dụng để bành trướng ra nước ngoài. Tình trạng nợ nần của các nước đang phát triển ở châu Á, Phi và Mỹ Latinh là thực tế chứng minh cho kết luận trên.
- Thứ hai, Chủ thể xuất khẩu TB có sự thay đổi lớn, trong đó, vai trò của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) trong xuất khẩu TB ngày càng to lớn. Đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Chẳng hạn, vào những năm 90, các TNCs đã chiếm tới 90% luồng vốn FDI. Mặt khác, đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu TB từ các nước đang phát triển, mà nổi bật là các NIE châu Á.
(Để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, các công ty xuyên quốc gia đã biến các chi nhánh của mình thành một bộ phận cấu thành của khối KT mới nhằm tránh đòn thuế quan nặng của các đạo luật bảo hộ. Nhật và Tây Âu đã tích cực đầu tư vào thị trường Mỹ bằng cách đó).
- Thứ ba, Hình thức xuất khẩu TB đa dạng, có sự đan xen giữa xuất khẩu TB và xuất khẩu hàng hóa tăng lên.
Chẳng hạn, trong đầu tư trực tiếp xuất hiện hình thức mới như:
BOT (Hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao)
BTO (Hợp đồng xây dựng-chuyển giao-kinh doanh)
BT (Hợp đồng xây dựng-chuyển giao)
Sự xuất hiện xuất khẩu TB với các hợp đồng buôn bán hàng hóa dịch vụ, chất xám không ngừng tăng lên.
- Thứ tư, Sự áp đặt mang tính chất thực dân trong xuất khẩu TB đã được gỡ bỏ dần và nguyên tắc cùng có lợi được đề cao.
Xuất khẩu TB luôn thể hiện kết quả hai mặt. Một mặt, nó làm cho quan hệ TBCN được phát triển và mới rộng ra rên địa bàn quốc tế, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình PCLĐ và quốc tế hoá đời sống KT của nhiều nước, là một trong những nhân tố cực kỳ quan trọng tác động từ bên ngoài vào làm cho quá trình CNH ở các nước nhập khẩu TB phát triển nhanh chóng. Song, mặt khác, xuất khẩu TB cũng để lại cho các quốc gia nhập khẩu TB những hậu quả nặng nề như: nền KT phát triển mất cân đối và lệ thuộc, nợ nần chồng chất, do bị bóc lột quá nặng nề… Lợi dụng mặt tích cực của xuất khẩu TB, nhiều nước đã mở rộng việc tiếp nhận đầu tư để đẩy mạnh quá trình CNH ở nước mình. Vấn đề đặt ra là phải biết vận dụng mềm dẻo, linh hoạt nguyên tắc cùng có lợi, lựa chọn phương án thiết thực để khai thác nguồn lực quốc tế có hiệu quả.
4. Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các liên minh độc quyền
a. Đặc điểm của sự phân chia thế giới về mặt kinh tế
- Việc bành trướng ra nước ngoài là một nhu cầu tất yếu của CNTB. Đến giai đoạn TB độc quyền quá trình đó càng trở nên cấp thiết hơn. Do vậy, sự phân chia thế giới về kinh tế tất yếu diễn ra.
(Sự phân chia này có thể diễn ra dưới hình thức này hay hình thức khác tuỳ thuộc vào tương quan sức mạnh giữa các liên minh độc quyền).
- Thực chất sự phân chia thế giới về kinh tế là sự phân chia thị trường tiêu thụ hàng hoá và đầu tư.
(Dưới CNTB, thị trường trong nước luôn luôn gắn với thị trường ngoài nước. Trước CNTB đã tồn tại mậu dịch quốc tế. Nhưng trong thời đại TB độc quyền vấn đề thị trường ngày càng trở nên đặc biệt gay gắt, do đó nhu cầu về thị trường ngoài nước tăng lên rất lớn. Trong điều kiện này, các độc quyền không đơn thuần cần thị trường tiêu thụ mà cần thị trường có sự bảo đảm, ổn định thường xuyên, ngăn được mọi kẻ cạnh tranh).
- Việc mở rộng không ngừng quy mô SX của các ĐQ đòi hỏi tăng tương ứng khối lượng nguyên liệu mà nguồn cung cấp chủ yếu lại ở ngoài những nước TBCN phát triển - nơi các ĐQ sinh ra và hoạt động. Do đó, trong thời đại TB độc quyền, cuộc đấu tranh gay gắt giành thị trường tiêu thụ, nguồn nguyên liệu và lĩnh vực đầu tư TB ở nước ngoài ngày càng mở rộng. Sự đụng độ trên trường quốc tế giữa các ĐQ dân tộc có sức mạnh KT to lớn và được sự ủng hộ của nhà nước “của mình”, cuộc đấu tranh ác liệt giữa chúng tất yếu nảy sinh nguyện vọng thoả hiệp, ký kết các hiệp định để củng cố địa vị ĐQ trong những lĩnh vực hoặc những thị trường nhất định. Sự thoả hiệp và cạnh tranh giữa các ĐQ dân tộc của các nước TB khác nhau đã dẫn đến sự hình thành các độc quyền quốc tế và sự phân chia về KT giữa chúng.
Các Consơn và Côngơlômêrết bành trướng ra nước ngoài hình thành các công ty xuyên quốc gia chiếm lĩnh những vị trí then chốt trong nền KT thế giới. Hiện nay 67.000 công ty xuyên quốc gia lớn nhất có doanh số bán ra nước ngoài từ 10 tỷ đến trên 100 tỷ đôla Mỹ, vượt kim ngạch xuất khẩu của nhiều nước.
Sự hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế đánh dấu một giai đoạn tích tụ và tập trung TB cao hơn, vì quá trình tích tụ và tập trung TB đã dẫn tới quy mô SX vượt ra khỏi biên giới quốc gia.
Như vậy, các tổ chức độc quyền quốc tế có vai trò to lớn thúc đẩy quá trình xã hội hoá SX, ứng dụng khoa học kỹ thuật ngày một hiện đại hơn.
b. Biểu hiện mới của sự phân chia thị trường trong giai đoạn hiện nay
- Một là, Chủ thể phân chia thị trường TG không chỉ có các tổ chức độc quyền quốc gia mà bên cạnh dó còn có các nhà nước, quốc gia, dân tộc TB phát triển và đang phát triển.
(Do tính toàn cầu của nền KT thế giới ngày càng tăng, sự phân chia thế giới về KT giữa các liên minh độc quyền quốc tế có bước phát triển mới. Để bảo vệ lợi ích của mình, các liên minh độc quyền quốc tế sử dụng các nhà nước nhằm chi phối các tổ chức KT khu vực).
Bên cạnh đó, vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong việc phân chia thị trường rất nổi trội. Với gần 60 ngàn các công ty mẹ và 500 ngàn công ty chi nhánh, các công ty xuyên quốc gia đã trở thành chủ thể chủ yếu chiếm lĩnh thị trường TG. Hiện nay, các công ty này kiểm soát 60% thương mại quốc tế, 80%-90% thị trường sản phẩm công nghệ cao cấp.
- Hai là, kết quả của sự phân chia KT thế giới hình thành các liên minh và khối liên kết khu vực.
Điển hình của loại liên minh này là Cộng đồng kinh tế châu Âu (EC), thành lập năm 1957 với sau nước thành viên sáng lập, sau đó kết nạp thêm 9 nước. Ngoài ra EC còn có 115 nước liên kết, vốn là các nước thuộc địa cũ của các thành viên nói trên. EC hiện đang ở vào giai đoạn lịch sử mới, trở thành Liên minh châu Âu từ 1995 và từ 1-1-1999 đã cho ra đời đồng tiền chung châu Âu với sự tham gia của 11 quốc gia.
Tại Tây bán cầu, Mỹ đang xúc tiến thành lập Khối thị trường chung châu Mỹ (dự định hoàn tất vào năm 2010) bằng cách từng bước mở rộng khối mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) gồm: Canada, Mêhicô và Mỹ.
Việc phân chia thế giới về KT cũng có sự tham gia của một loạt nước đang phát triển nhằm chống lại sức ép của các cường quốc TBCN. Đó là việc thành lập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC). Thị trường chung vùng chóp nón Nam Mỹ (Mercosur) gồm 4 nước: Braxin, Achentina, Uruqoay, Pragoay, liên minh châu phi (AU).
5. Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc TBCN
a. Đặc điểm của sự phân chia lãnh thổ thế giới
- Sự phân chia TGiới được củng cố và tăng cường bằng việc phân chia TG về lãnh thổ. Các cường quốc đế quốc trước kia ra sức xâm chiếm các nước chậm phát triển để làm thuộc địa nhằm giành thị trường triêu thụ hàng hoá, nguồn nguyên liệu, nơi đầu tư TB có lợi và lập căn cứ quân sự.
Quá trình phân chia lãnh thổ thế giới diễn ra rất sớm, Điển hình bắt đầu là Anh (1860), tiếp theo đó là Nga, Pháp, Đức, Nhật.
VD: Theo thống kê: đến 1914 các cường quốc đế quốc có diện tích là 16,5 triệu km2 nhưng diện tích thuộc địa là 74, 9 triệu km2 và nửa thuộc địa là 14,5 triệu km2. Chỉ tính riêng 6 nước (Anh, Pháp, Nga, Đức, Mỹ, Nhật) đã chiếm 65tr km2 với dân số thuộc địa là 523,4 triệu, trong đó Anh là nước chiếm nhiều thuộc địa nhất, chiếm 33,6 triệu km2 và 393,5 triệu người, do đó người ta có câu: “Mặt trời không bao giờ lạn trên đất Anh”.
1969 các cường quốc đế quốc có diện tích là 12,3 triệu km2 nhưng các thuộc địa và nửa thuộc địa là 84,1 triệu km2
Tổng số dân thuộc địa của Anh gấp 12 lần của Nga và 7 lần tổng số dân thuộc địa của Pháp. Tổng số dân thuộc địa của Pháp nhiều hơn của cả 3 nước Đức, Mỹ, Nhật cộng lại
- Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các nước đế quốc đã hoàn thành việc phân chia lãnh thổ thế giới. Song, sự phân chia đó rất không đều nên tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh đòi phân chia lại thế giới đã chia xong. Những cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai trong nữa đầu thế kỷ XX này, trước hết xuất phát từ mục đích chia lại thế giới gữa các cường quốc đế quốc.
Do đó, cần khẳng định rằng, bản chất của sự phân chia lãnh thổ là thực hiện chủ nghĩa thực dân.
b. Biểu hiện mới của sự phân chia lãnh thổ trong giai đoạn hiện nay
- Phong trào giải phóng dân tộc đã làm sụp đổ hệ thống thuộc địa kiểu cũ nhưng điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa thực dân đã bị thủ tiêu. Trái lại, các cường quốc TBCN chuyển sang thi hành chính sách thực dân mới, mà nội dung chủ yếu của nó là dùng viện trợ kinh tế, kỹ thuật, quân sự để duy trì sự lệ thuộc của các nước đang phát triển vào các nước đế quốc.
Hiện nay, có quan điểm phủ nhận chủ nghĩa thực dân mới. Những người theo quan điểm này lập luận rằng, ngày nay các nước TBCN phát triển không cần chiếm nguồn lượng thực, nguyên liệu và nhân công rẻ nữa, bởi vì nhiều nước phát triển đã trở thành nước xuất khẩu lương thực, rằng nhiều vật liệu nhân tạo đã thay thế nguyên liệu tự nhiên, các công nghệ mới làm giảm lượng tiêu hao nguyên liệu; rằng tiến bộ KHKT làm tăng những sản phẩm có hàm lượng khoa học cao, làm giảm ý nghĩa của nhân công rẻ và tạo ra nơi đầu tư có lợi ở ngay cả các nước phát triển. Dù những điều trên đây là có thực, thì các nước chậm phát triển vẫn đóng vai trò quan trọng trong sự vận hành của nền KT của các cường quốc TBCN. Tuy tỷ trọng nguyên liệu tự nhiên trong tổng số nguyên liệu được sử dụng ngày càng giảm, một số nguyên liệu có ý nghĩa chiến lược (dầu mỏ, cao su thiên nhiên…) vẫn không thể thiếu được trong quá trình SX, TSX của các nước TB phát triển. Chẳng hạn: Nhật Bản gần như nhập khẩu 100% dầu mỏ mà phần lớn số dầu đó được nhập từ các nước đang phát triển; cuộc chiến tranh vùng Vịnh thời gian qua do Mỹ cùng các nước đồng minh tiến hành trước hết là để bảo vệ nguồn lợi dầu mỏ và quyền lợi kinh tế của Mỹ, Anh và các nước đế quốc khác tại Trung Đông.
Hậu quả lớn nhất của chủ nghĩa thực dân mới là nợ nần ngày càng đè nặng lên các nước đang phát triển. Vào đầu thế kỷ XXI, tổng số nợ của các nước này đã lên tới 2.100 tỷ USD, trong đó 40 nước không có khả năng trả nợ và 17 nền kinh tế quốc gia đang bên bờ vực thẳm phá sản. Hàng năm thông qua dịch vụ nợ các nước đang phát triển phải trả cho các nước chủ nợ từ 130 đến 150 tỷ USD.
Do sự lệ thuộc nêu trên, mức sống của các nước đang phát triển ngày càng tụt hậu xa so với mức sống của các nước phát triển. Tiền lương tối thiểu ở các trung tâm TBCN khoảng 1.000 USD/tháng, còn ở nước đang phát triển, trung bình chỉ khoảng 50 USD/tháng.
- Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục dưới những hình thức cạnh tranh và thống trị mới. Mặc dù chiến tranh lạnh đã kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, nhưng các cường quốc TBCN vẫn ngấm ngầm giành nhau phạm vi ảnh hưởng. Những cuộc chiến tranh khu vực, chiến tranh thương mại, những chiến tranh sắc tộc, tôn giáo vẫn xảy ra. Đứng đằng sau các cuộc đụng độ đó vẫn là các cường quốc đế quốc.
(Ngày nay, với đặc điểm của thời đại - thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, hoà bình phát triển đã trở thành xu hướng cơ bản của thời đại nên sự phân chia lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc mặc dù vẫn tiếp diễn song dưới hình thức mới, chúng không thể tiếp tục gây chiến tranh đế quốc như trước đây. Tuy nhiên, chiến tranh cục bộ, dân tộc, sắc tộc, biên giới… đang là một hiện thực, trong đó có sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp của các thế lực đế quốc. Với lợi ích của các tổ hợp công nghiệp – quân sự và sự tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN, nguồn gốc chiến tranh vẫn còn và nhân loại cần phải nâng cao cảnh giác để ngăn chặn).
Tóm lại, từ 5 năm đặc trưng nêu trên của CNĐQ thì chúng ta có thể kết luận rằng: CNTB hiện đại về mặt kinh tế là sự thống trị của CNTB độc quyền, về mặt chính trị là sự xâm lược nước ngoài, là độc tài chính trị, là hiếu chiến, dã man…CNTB hiện đại là giai đoạn độc quyền của CNTB.
B. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC.
CNTB độc quyền nhà nước là một nấc thang mới trong giai đoạn phát triển CNTB độc quyền và là một loại độc quyền mới hỗn hợp giữa nhà nước và tư nhân (cũng có nghĩa rằng nó không phải là một giai đoạn mới của chủ nghĩa tư bản, và càng không phải là giai đoạn nằm ngoài phương thức sản xuất chủ nghĩa tư bản). Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước không những không phủ định các tổ chức độc quyền tư nhân, trái lại nó cũng tồn tại hỗ trợ và thúc đẩy các tổ chức độc quyền tư nhân phát triển. Đồng thời, nó trở thành hình thức phát triển cao hơn trong giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản, làm cho chủ nghĩa tư bản độc quyền có những đặc trưng mới.
I. Bản chất của CNTB độc quyền nhà nước và nguyên nhân ra đời
1. Bản chất của CNTB độc quyền nhà nước
a. Khái niệm
Chúng ta có thể thấy rằng nếu như trong giai đoạn TDCT, Nhà nước đóng vai trò là kẻ canh gác tài sản cho giai cấp TS, bảo vệ các điều kiện chung bên ngoài của PTSX TBCN còn quá trình sản xuất TBCN vận động dưới sự chi phối của các quy luật KT thì đến giai đoạn độc quyền Nhà nước, Nhà nước dần can thiệp sâu vào quá trình KT. Nhà nước trực tiếp tham gia vào việc điều tiết sản xuất và phân phối, Nhà nước lúc này không còn hoàn toàn là của giai cấp TS nữa mà chủ yếu là của bọn TB độc quyền. Vậy CNTB ĐQNN là sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào quá trình KT.
Hơn nữa, để nhằm điều chỉnh được nền kinh tế từ một trung tâm, Nhà nước phối hợp với các tổ chức độc quyền thành một thể thống nhất có đầy đủ sức mạnh kinh tế, chính trị chi phối tất cả. Do đó CNTB ĐQNN là sự dung hợp giữa Nhà nước TS và các tổ chức độc quyền.
Trong giai đoạn TDCT, Nhà nước có tính độc lập tương đối với các cơ sở kinh tế bởi Nhà nước ít can thiệp vào kinh tế. Nhưng đến giai đoạn này Nhà nước ngày càng phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền, điều này do sự thống trị của các tổ chức độc quyền quyết định.
CNTB độc quyền nhà nước là sự kết hợp hay hợp sức mạnh của các tổ chức ĐQ tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho CNTB.
b. Bản chất
- CNTBĐQ Nhà nước là nấc thang phát triển mới của CNTBĐQ trong phương thức SX TBCN. Nó là sự thống nhất của ba quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau: + Tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền
+ Mở rộng vai trò kinh tế của nhà nước tư sản
+ Kết hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước trong một cơ chế thống nhất, trong đó bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các bộ máy độc quyền.
- Trong thời đại TB tài chính thống trị, bọn đầu sỏ tài chính dùng một hệ thống các mối dây liên hệ, lệ thuộc bao quát hết thảy các cơ quan KT, CT. Theo V.I.Lênin, đó là “biểu hiện rõ rệt nhất của sự độc quyền”. - Cũng cần nhấn mạnh rằng, trong cơ cấu của CNTBĐQ nhà nước, Nhà nước đã trở thành một tập thể TB khổng lồ. Nó cũng là chủ sở hữu những xí nghiệp và doanh nghiệp, cũng tiến hành kinh doanh và bóc lột lao động làm thuê như một nhà TB thông thường. Song, điểm khác biệt ở chỗ, ngoài chức năng một nhà TB thông thường, nhà nước còn có chức năng chính trị, và các công cụ trấn áp XH như quân đội, cảnh sát, nhà tù. Do vậy, mối quan hệ XH của nó đã có sự biến đổi, không chỉ quan hệ chính trị, bạo lực mà còn cả quan hệ kinh tế.
- Nhà nước TBĐQ là Nhà nước của các nhà TB, là nhà TB tập thể lý tưởng. Nhà nước ấy càng chuyển nhiều L2SX thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành nhà tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu.
Như vậy, CNTBĐQ nhà nước là một quan hệ KT - XH, quan hệ giai cấp chứ không phải chỉ là chính sách của nhà nước tư sản trong giai đoạn độc quyền thống trị.
- Trong giai đoạn CNTB ĐQ, vai trò của nhà nước tư sản đã có sự biến đổi. Nhà nước trực tiếp can thiệp vào quá trình TSX XH làm cho nền KTQD vừa chịa sự tác động tự phát của quy luật thị trường, vừa chịu sự điều tiết của nhà nước. Sự điều tiết này bao trùm tất cả các khâu sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng và được thực hiện chủ yếu bằng các biện pháp kinh tế, nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định.
Sự can thiệp của nhà nước vào quá trình KT không phải là điều mới mẻ. Ngay trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến, nhà nước đã là người sở hữu ruộng đất và bất động sản lớn nhất, đồng thời nó dùng quyền lực tối cao của mình chi phối quá trình kinh tế. Song, những biện pháp trước đây chủ yếu là dựa vào bạo lực và theo lối cưỡng bức siêu kinh tế.
Tóm lại, CNTBĐQ nhà nước là hình thức vận động mới của QHSX TBCN trước sự phát triển mạnh mẽ của L2SX cả về trình độ và tính chất xã hội hoá nhằm duy trì sự tồn tại của CNTB, làm cho CNTB thích nghi với những điều kiện lịch sử mới. Đó là bản chất của CNTBĐQ nhà nước.
2. Nguyên nhân hình thành CNTBĐQ nhà nước
CNTBĐQ nhà nước là nấc thang vận động mới tất yếu của độc quyền. Nó ra đời đầu tiên ở Cộng hòa liên bang Đức trước Chiến tranh TG I. Sau thời kỳ đó nó dường như là sản phẩm chuẩn bị cho chiến tranh đế quốc. Sau chiến tranh thế giới II nó xuất hiện phổ biến ở tất cả các nước TBCN do những nguyên nhân chủ yếu dưới đây:
- Một là, tích tụ và tập trung TB ngày càng lớn thì tích tụ và tập trung SX càng cao, do đó, đẻ ra những cơ cấu kinh tế to lớn, đòi hỏi một sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, một sự kế hoạch hoá tập trung từ một trung tâm. Nói cách khác, sự phát triển hơn nữa của trình độ xã hội hóa L2SX đã dẫn đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn xã hội quản lý nền sản xuất. L2SX đạt trình độ xã hội hoá ngày càng cao càng mâu thuẫn gay gắt với hình thức chiếm hữu TB tư nhân, do đó tất yếu đòi hỏi một hình thức mới của QHSX TBCN cao hơn QHSX dưới sự thống trị của độc quyền tư nhân để L2SX có thể tiếp tục phát triển trong điều kiện còn sự thống trị của CNTB. Hình thức mới đó là CNTBĐQ nhà nước.
- Hai là, sự phát triển của PC LĐXH đã làm xuất hiện một số ngành mà các tổ chức độc quyền TB tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh, vì đòi hỏi một tầm nhìn chiến lược cao, vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, vận tải, bảo vệ môi trường, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản. Vì vậy, đòi hỏi nhà nước phải đứng ra đảm nhận và dùng vốn ngân sách để đầu tư vào các ngành đó.
- Ba là, sự thống trị của độc quyền làm sâu sắc hơn mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải có những chính sách để tạm thời làm dịu những mâu thuẫn đó, như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, chống lạm phát, phát triển phúc lợi XH.
- Bốn là, cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống KT, sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia vấp phải những hàng rào dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường TGiới. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết các quan hệ KT, trong đó không thể thiếu vai trò nhà nước.
Ngoài ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới, cuộc đấu tranh chống CNXH và thích ứng với sự tác động của các cuộc CMKH – CNghệ… cũng đòi hỏi sự can thiệp trực tiếp của nhà nước, thêm vào đó là chiến tranh đế quốc cũng đã thúc đẩy quá trình chuyển biến CNTBĐQ sang CNTBĐQ nhà nước.
II. Những hình thức biểu hiện chủ yếu của CNTBĐQ nhà nước
Sự kết hợp sức mạnh giữa tổ chức độc quyền với nhà nước tư sản hình thành một cơ cấu và cơ chế thống nhất được biểu hiện dưới những hình thức cụ thể và chủ yếu sau đây:
1. Sự kết hợp về con người giữa các tổ chức ĐQ và nhà nước tư sản
V.I.Lênin đã từng nhấn mạnh rằng, sự liên minh cá nhân của ngân hàng và công nghiệp với chính phủ “Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm nay là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng”. - Để sử dụng sức mạnh của Nhà nước bảo vệ lợi ích của mình, các tổ chức ĐQ tiến hành kiểm soát, chi phối nhà nước bằng việc cử người tham gia bộ máy nhà nước. Từ đó, các chính sách đối nội, đối ngoại của nhà nước được hoạch định vì lợi ích của các tổ chức ĐQ. Đồng thời, nhà nước tư sản cũng cử người tham gia vào ban quản trị của các tổ chức ĐQ, nhằm tạo cơ sở Ktế và chính trị.
- Sự kết hợp này được thực hiện thông qua các đảng phái tư sản. Chính các đảng phái tư sản đã tạo cho TB độc quyền một “cơ sở quẩn chúng” để thực hiện sự thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ cán bộ cho bộ máy nhà nước. Thông qua các cuộc bầu cử, các đảng phái cử người của mình nắm giữ những chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước: Tổng thống, thủ tướng, nghị viện… Tương quan lực lượng giữa các đảng phái quyết định số ghế của mỗi Đảng trong bộ máy nhà nước. Chính sách đối nội, đối ngoại của nhà nước tư sản trước hết và trực tiếp phản ánh lợi ích của đảng tư sản cầm quyền, đồng thời là sự điều hòa lợi ích của các đảng tư sản, phản ánh lợi ích chung của TB độc quyền.
Cùng với đảng phái tư sản là các hội chủ xí nghiệp mang những tên khác nhau như: Hội đồng toàn quốc Mỹ, Tổng liên đoàn công nghiệp Italia, Liên đoàn các nhà kinh tế Nhật Bản, Liên minh liên bang công nghiệp Đức, Hội đồng quốc gia giới chủ pháp, Tổng liên đoàn công thương Anh… Tuy đã hình thành từ thế kỷ XVIII ở một số nước, nhưng chỉ đến giai đoạn độc quyền các hội này mới bắt đầu phát triển mạnh, chúng phát triển thành hội toàn quốc và trở thành lực lượng chính trị, kinh tế to lớn, là chỗ dựa cho CNTBĐQ nhà nước. Giữa các đảng phái và các hội chủ xí nghiệp có một quan hệ khăng khít. Các hội này cung cấp tới 90% kinh phí cho các đảng, quyết định về mặt nhân sự và đường lối chính trị, kinh tế của các đảng này. Các hội chủ xí nghiệp còn lập ra các ban, các ủy ban tư vấn đủ loại bên cạnh các bộ, nhằm mục đích “lái” hoạt động của nhà nước theo ý đồ chiến lược của mình. Vai trò của các “hội” lớn đến mức mà dư luận TGiới đã gọi chúng là những chính phủ đằng sau chính phủ (chính phủ thật đằng sau chính phủ giả), một quyền lực thực tế đằng sau quyền lực chính quyền. Thông qua các hội chủ, một mặt, các đại biểu của các tổ chức ĐQ đã được tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau; mặt khác, các quan chức và nhân viên chính phủ được “cài” vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền, nắm giữ những chức danh trọng yếu chính thức hoặc danh dự, hoặc trở thành những người đỡ đầu các tổ chức ĐQ. Sự thâm nhập lẫn nhau này (còn gọi là sự kết hợp) đã tạo ra những nét mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.
2. Sự hình thành và phát triển của sở hữu TB độc quyền nhà nước
- Khác với sở hữu tư nhân TBCN - chế độ tư hữu “thuần khiết nhất”, trong đó “của riêng là thiêng liêng và bất khả xâm phạm”, sở hữu độc quyền nhà nước hay TB của nhà nước tư sản là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản độc quyền, có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích củaTB độc quyền, nhằm duy trì sự tồn tại của CNTB. Sở hữu độc quyền nhà nước xuất hiện thì quan hệ sở hữu của XH tư sản có sự thay đổi: Nhà nước là chủ sở hữu một khối lượng TB khổng lồ, giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân có sự gắn bó ngay trong quá trình tuần hoàn của tổng tư bản XH.
- Sở hữu nhà nước bao gồm các doanh nghiệp của mình trong các ngành công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải, y tế, giáo dục… và toàn bộ tài nguyên: đất đai, rừng, biển…, các động sản, bất động sản cần thiết cho hoạt động của bộ máy nhà nước (Bộ máy hành chính, ytế, giáo dục, bảo hiểm xã hội…),
- Sở hữu nhà nước tư sản được hình thành dưới những hình thức sau:
+ Xây dựng DNNN bằng vốn ngân sách (trong đó có cả doanh nghiệp SH 100% vốn của nhà nước và doanh nghiệp liên kết với TB tư nhân trong và ngoài nước, kể cả liên kết với các nhà nước khác).
+ Quốc hữu hóa các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại.
+ Nhà nước mua cổ phiếu của các doanh nghiệp tư nhân.
+ Mở rộng DNNN bằng vốn tích lũy của chúng và vốn từ ngân sách.
Cùng với quá trình quốc hữu hoá, còn có quá trình tư nhân hoá các xí nghiệp nhà nước nhằm đưa lại hiệu quả kinh doanh có lợi cho tổ chức ĐQ. Đó là quá trình song hành mà mục đích là tăng hiệu suất tư bản.
- Sở hữu độc quyền nhà nước ra đời, phát triển gắn liền với sự hình thành các ngành thuộc lĩnh vực kinh doanh của nhà nước. Việc kinh doanh của nhà nước thực hiện một số chức năng quan trọng.
Thứ nhất, mở rộng SX TBCN, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của TB độc quyền tư nhân. Điều này liên quan đến nhứng ngành SX khó đứng vững trước sự cạnh tranh và trở nên thua lỗ cũng như những ngành mới đòi hỏi vốn đầu tư lớn và trình độ nghiên cứu khoa học, thiết kế và thử nghiệm cao…
Thứ hai, giải phóng TB của tổ chức ĐQ từ những ngành ít lãi để đưa vào những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn.
Thứ ba, điều tiết nền kinh tế TBCN theo những chương trình nhất định. Sự hình thành thị trường nhà nước với việc nhà nước chủ động mở rộng thị trường trong nước bằng việc bao mua những hợp đồng khác nhau đã giúp TB tư nhân khắc phục được một phần khó khăn trong những thời kỳ khủng hoảng, góp phần bảo đảm cho quá trình SX diễn ra một cách bình thường. Các hợp đồng ký kết với nhà nước vừa giúp cho các tổ chức ĐQ tư nhân tiêu thụ được hàng hoá ế thừa, vừa bảo đảm lợi nhuận ổn định, vừa khắc phục được tình trạng thiếu nguyên liệu và vật liệu chiến lược. Trong các hợp đồng ký kết giữa nhà nước và các ĐQ tư nhân, quan trọng hơn cả các hợp đồng về hàng. Chiến lược, đặc biệt là hàng quân sự. Với các hợp đồng này, các tổ chức ĐQ tư nhân, thường kiếm được lợi nhuận lớn, vì tỷ suất lợi nhuận của việc SX các loại hàng đó cao hơn hẳn tỷ lệ lợi nhuận thông thường.
- Đặc trưng của SH trong CNTB ĐQ nhà nước là tính chất đồng SH giữa nhà nước tư sản và độc quyền tư nhân. Tính chất đồng SH này đã tạo ra sự dung hợp, đan xen cả trách nhiệm và lợi ích giữa 2 lực lượng này trên tất cả các mặt của quan hệ SH như: quan hệ chiếm hữu, sử dụng và chi phối đối với TLSX, trong đó SH của nhà TB bị nhà nước chi phối, sử dụng và ngược lại, SH nhà nước cũng bị TB chi phối và sử dụng. Ở đây, mục đích SH của nhà nước tư sản là tạo điều kiện để KT - XH phát triển và bảo tồn CNTB, còn mục đích SH của TB độc quyền tư nhân là lợi nhuận ĐQ cao.
- Sở hữu nhà nước, một mặt, che dấu bản chất của chế độ sở hữu TB vì nó lập nên một hình thức SH “có tính chất XH”, mặc dù chỉ là cái vỏ bên ngoài, làm cho một số người ngộ nhận về cái gọi là “CNTB xã hội”; mặt khác, nó vạch trần bản chất bóc lột. Đồng thời, sự hình thành sở hữu nhà nước làm cho cuộc đấu tranh KT của công nhân trong các xí nghiệp nhà nước mang tính chất của cuộc đấu tranh chính trị. Những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi quốc hữu hoá các xí nghiệp TB độc quyền tư nhân, đòi quản lý dân chủ những xí nghiệp đã quốc hữu hoá… đều có ý nghĩa là cuộc đấu tranh dân chủ nhằm tập hợp quần chúng tiến lên giành những mục tiêu cao hơn của cuộc đấu tranh giai cấp.
3. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản
Trước hết, điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản là một biểu hiện chủ yếu, đặc trưng và quan trọng nhất của CNTB ĐQ nhà nước, bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân sâu xa mà trực tiếp là những khuyết tật của nền kinh tế thị trường TBCN và nhằm mục tiêu ổn định KT - XH, tạo môi trường cho TB độc quyền tư nhân hoạt động có hiệu quả.
- Sự điều tiết trước hết dựa trên cơ sở của những lý thuyết KT nhất định là luôn thay đổi trong từng giai đoạn cũng như đặc điểm của từng quốc gia TBCN. Đồng thời, để thực hiện điều tiết có hiệu quả, nhà nước tư sản đã tổ chức bộ máy điều tiết và sử dụng hệ thống các công cụ chính sách điều tiết liên quốc gia.
Trong tổng số những lý thuyết kinh tế được vận dụng, nổi bậc nhất là lý thuyết của J.M.Kên xơ. Lý thuyết này đánh dấu một mốc lịch sử về sự khẳng định vai trò của nhà nước trong KTTT. Nội dung cơ bản của nó là tập trung vào việc điều tiết cầu, nên còn gọi là lý thuyết trọng cầu. Mặc dù, lúc đầu việc vận dụng lý thuyết Kên xơ có mang lại hiệu quả nhất định. Song, càng về sau nó càng bộc lộ những khiếm khuyết. Nó bị phê phán mạnh mẽ và được thay thế bằng các lý thuyết Tự do mới và lý thuyết về Nền kinh tế hỗn hợp. Một trong những nét đặc trưng của việc vận dụng lý thuyết trong điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản là việc vận dụng mang tính thực dụng.
- Bộ máy điều tiết về cơ bản được thiết lập trên cơ sở tam quyền phân lập bao gồm cơ quan lập pháp (Quốc hội), cơ quan hành pháp (Chính phủ) và cơ quan tư pháp (Toà án, Viện kiểm soát…). Bộ máy điều tiết này cũng mang những nét riêng đối với từng quốc gia.
- Công cụ và chính sách điều tiết được sử dụng linh hoạt, bao gồm các công cụ hành chính, pháp luật, các công cụ đòn bẩy và chính sách KT, trong đó thuế, lãi suất… được coi trọng hàng đầu.
- Sự điều tiết kinh tế được thực hiện dưới hình thức phối hợp các cơ chế, trong đó cơ chế thị trường là nền tảng, còn cơ chế độc quyền tư nhân và cơ chế độc quyền nhà nước được sử dụng linh hoạt theo hướng thị trường ngày càng tăng, còn nhà nước ngày càng giảm nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế.
- Đặc điểm của sự điều tiết KT của nhà nước tư sản là trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường, nhà nước sử dụng các biện pháp nhằm định hướng sự phát triển thông qua các chương trình dài hạn, trung hạn, ngắn hạn với các giải pháp mang tính chiến lược và tình thế. Trong một số nước TB phát triển đã ít nhiều vận dụng tư tưởng “dân chủ hoá” trong hoạt động SXKD.
- Việc điều tiết KT của CNTB nhà nước được thực hiện thông qua các chính sách KT như: chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chính sách chống lạm phát, chính sách tăng trưởng KT, chính sách KT đối ngoại, chính sách XH. Đặc biệt trong thời gian gần đây, chính sách XH được áp dụng một cách khá phổ biến và toàn diện nhằm xoa dịu mâu thuẫn KT - XH và thường dựa vào việc thực thi chính sách để tuyên truyền cho cái gọi là CNTB xã hội.
Tóm lại, trong CNTB ĐQ nhà nước, đặc điểm KT nổi bật là sự mở rộng vai trò KT của nhà nước tư sản và hoạt động điều chỉnh KT của nhà nước. Đặc điểm KT này không phải tới khi CNTB ĐQ nhà nước ra đời mới nảy sinh, mà chỉ từ đó, nó mới xuất hiện có tính phổ biến và có tính bản chất, in dấu ấn đặc thù của một thời kỳ phát triển của CNTB.
IV. Vai trò của CNTB độc quyền nhà nước đối với vận mệnh lịch sử của CNTB
1. CNTB ĐQ nhà nước tạm thời làm dịu mâu thuẫn của quá trình TSX XH của TB nhưng lại mở rộng quy mô và làm sâu sắc thêm mâu thuẫn cơ bản của CNTB
- Những biện pháp điều tiết quá trình TSX XH của nhà nước đã tác dụng ít nhiều đối với việc làm dịu những mâu thuẫn vốn có của nền SX TBCN:
Một là, việc SX có tổ chức, có kế hoạch trong các xí nghiệp TBCN không còn đối lập gay gắt với tình trạng vận động tự phát, rối loạn vô chính phủ của toàn bộ nền SX XH.
Nhà nước tư sản đã sử dụng các phươg tiện thông tin, kỹ thuật hiện đại để thu thập tình hình SXKD, tiêu thụ hàng hóa và xử lý kịp thời bằng hệ thống công cụ, giải pháp hành chính và chính sách KT đồng bộ nhằm ngăn ngừa kịp thời, có hiệu quả những mất cân đối gây ra các cú sốc KT và định hướng sự vận động của nền KT vào các mục tiêu KT-XH. Tuy các chương trình và kế hoạch KT không mang tính pháp lệnh, song nó có tác dụng chỉ đường, hướng dẫn các xí nghiệp đi vào quỹ đạo vận động chung của nền KT. Nhờ đó mà mâu thuẫn giữa sự mở rộng SX và giới hạn chật hẹp của thị trường đã dịu bớt tính gay gắt.
Hai là, từ sau chiến tranh TG 2, các chương trình phát triển KH-KT-Cnghệ của nhà nước làm cho trình độ của người lao động được nâng cao, NSLĐ tăng. Thêm vào đó là chính sách điều tiết qua thuế thu nhập và thực hiện các chương trình bảo đảm XH toàn diện đã làm tính đối kháng giai cấp dịu bớt.
Ba là, quá trình toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng buộc các quốc gia phải giải quyết những vấn đề chung như: hiểm họa của chiến tranh TG, ô nhiễm môi trường, tệ nạn XH, cũng như các cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ.
Trong những không gian và thời gian nhất định, những mâu thuẫn vốn có đó đã giảm mức độ gay gắt của các cuộc khủng hoảng kinh tế đã có xu hướng dịu đi, đặc biệt là mức độ thiệt hại mà chúng gây ra trong phạm vi một nước không lớn như thời kỳ trước Chiến tranh TG 2. Các chỉ số kinh tế cơ bản vẫn bảo đảm ở mức độ có thể chấp nhận được. Chẳng hạn, tốc độ tăng GDP của các nước TB phát triển ở mức 2,9 % (thời kỳ 1982-1990), 1-2% thời kỳ 1991 – 1999. Cũng trong thời kỳ đó lạm phát ở mức 5,5% và 1,1 – 2,8%, thất nghiệp 6,9% và 6-7%. Năng suất lao động 3,3% và 1,0 – 3%, cán cân ngoại thương tăng (1998: 65 tỷ USD, 1999: 4,2 tỷUSD). Từ đó nảy sinh nhiều ảo tưởng về “CNTB điều tiết”, “CNTB không có khủng hoảng”.
Thực tế CNTB ĐQ nhà nước là một hình thức vận động mới của QHSX TBCN cao hơn với thời kỳ tư bản tự do cạnh tranh thống trị,chứ không phải là một sự thay đổi về chất. Do đó, các quy luật vốn có của CNTB không bị thủ tiêu mà chỉ có những biểu hiện mới. Khủng hoảng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp và những căn bệnh của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại từ sau Chiến tranh TG 2 đến nay, CNTB đã trải qua 5 cuộc khủng hoảng chu kỳ: 1948 -1949; 1957-1958; 1969-1972; 1980-1982; 1991-1992; 1997-1998; cùng với các cuộc khủng hoảng đó cuộc khủng hoảng trung gian: 1953-1954; 1960-1961; 1966-1967; 1974-1975, khủng hoảng năng lượng và cơ cấu, khủng hoảng môi trường. Tốc độ phát triển kinh tế lên xuống bấp bênh và trì trệ đi liền với lạm phát (… thất nghiệp, nghèo khổ, phân cực xã hội vấn là căn bệnh không tránh khỏi).
- Có thể nói, sự điều tiết của CNTB ĐQ nhà nước đối với quá trình TSX có tác dụng làm dịu những mâu thuẫn vốn có của quá trình TSX và trong chừng mực nhất định còn có tác dụng kích thích SX phát triển. Song, nó lại tạo ra những mâu thuẫn mới, làm cho mâu thuẫn vốn có phát triển với quy mô rộng lớn hơn, có lúc gay gắt hơn và ngày càng mang tính toàn cầu. Điều đó cũng thể hiện rõ việc bành trướng quốc tế của các công ty xuyên quốc gia dưới sự điều tiết quá trình KT đối ngoại của CNTB ĐQ nhà nước và trong những biện pháp điều tiết của CNTB ĐQ nhà nước quốc tế. Trong quá trình điều tiết này, mâu thuẫn cơ bản được quốc tế hoá, làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư bản độc quyền quốc tế, giữa các nước đế quốc với các nước đang phát triển, giữa các nước đế quốc với nhau có lúc trở nên hết sức gay gắt.
Tuy nhiên, đứng về mặt kinh tế - kỹ thuật, các biện pháp điều tiết quá trình TSX của CNTB ĐQ nhà nước là những biện pháp mang tính tất yếu trong điều kiện LLSX phát triển cao độ. Đó là những bài học kinh nghiệm trong việc quản lý kinh tế thị trường trên tầm vĩ mô.
2. CNTB ĐQ nhà nước là sự chuẩn bị tiền đề vật chất đầy đủ nhất cho CNXH
- Sự ra đời của CNTB ĐQ nhà nước thúc đẩy quá trình sở hữu của nhà nước, những TLSX chủ yếu có tính chất quyết định đối với quá trình TSX được tập trung trong tay nhà nước với những tỷ lệ khác nhau ở những nước khác nhau, làm cơ sở vật chất cho quá trình điều tiết. Đồng thời, nền KT đã vận động dưới sự điều tiết từ một trung tâm ở những mức độ nhất định.
- Chính cơ sở vật chất – kỹ thuật của một nền SX lớn và phương thức quản lý để bảo đảm sự tồn tại, phát triển hơn nữa một nền SX TBCN nhằm thu lợi nhuận cao cho giai cấp TB độc quyền là tiền đề vật chất đầy đủ nhất cho CNXH. V.I.Lênin nhận xét: “Biện chứng lịch sử chính là ở chỗ này: chiến tranh đã thúc đẩy nhanh chóng phi thường sự chuyển hoá của CNTB ĐQ thành CNTB ĐQ nhà nước… CNTB ĐQ nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất trong CNXH”, sự chuẩn bị vật chất là “đỉnh cao” về kỹ thuật TBCN hiện đại về tổ chức có kế hoạch, nếu thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản thì sẽ có tất cả các điều kiện để xây dựng CNXH.
- CNTB đã đẩy những mâu thuẫn KT - XH của CNTB lên một nấc thang và quy mô mới làm cho CMVS trở thành tất yếu để thực hiện sự thay thế CNTB bằng xã hội cao hơn.
- Làm cho sự phát triển không đều giữa các ngành, các lĩnh vực, các quốc gia tăng lên.
- Thất nghiệp tăng lên: CM KH- CN đưa tới tự động hoá, người máy…làm cho lao động chân tay bị sa thải nhiều nhưng lại thiếu cán bộ kỹ thuật, cán bộ khoa học. Đây là một mâu thuẫn mới trong nền kinh tế. Theo thống kê, hiện nay trên thế giới có trên 40 triệu người thất nghiệp các dạng. ở Nhật Bản tỷ lệ thất nghiệp chiếm 5,8% (năm 2000), Tây Âu 8,8% (năm 2000)
- Do chạy theo lợi nhuận độc quyền cao nên CNTB ĐQ nhà nước đã ra sức khai thác cạn kiệt tài nguyên, làm ô nhiễm môi trường sinh thái đến mức báo động. Thế giới đang đứng trước nguy cơ ô nhiễm môi trường to lớn.
Theo một số chuyên gia về môi trường thì chính Mỹ là quốc gia đang đứng đầu thế giới về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và chiếm tới 27% mức ô nhiễm môi trường. Song chính Mỹ cũng là nước không chịu ký nghị định xanh Kyôtô về việc cắt giảm các khí độc hại cho môi trường.
- CNTB ĐQ nhà nước vẫn không ngừng chạy đua vũ trang, tăng cường chi phí quân sự, hình thành các tổ hợp công nghiệp chế tạo vũ khí giết người hàng loạt, gây thiệt hại to lớn về tiền của.
Sau chiến tranh TGiới 2 đến nay, chi phí quân sự của TG đạt con số khổng lồ, ước tính hàng nghìn tỷ USD một năm (bằng thu nhập của Trung Quốc, Ấn Độ và châu Phi cộng lại), 90% phát minh khoa học là dành cho quân sự.
- Sự phân cực giàu nghèo ngày càng tăng lên ở các nước TB cũng như trên toàn thế giới.
Nếu như năm 1911, khoảng cách cách các nước giàu và các nước nghèo trên Tgiới là 11 lần, thì đến năm 1960 đã tăng lên 30 lần, năm 1990 là 60 lần và 1997 lên tới 74 lần thì hiện nay con số đó đã lên tới 100 lần.
Hiện nay, trên thế giới có tới gần 1 tỷ người nghèo khổ, riêng Mỹ được coi là nước giàu có nhất thế giới cũng vẫn tồn tại gần 40 triệu người nghèo khổ, Tây Âu là 15 triệu người nghèo khổ.
Sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng tăng, 20% số người nghèo nhất chiếm 3,8% tổng thu nhập trong khi đó 30% số người giàu chiếm tới 48%. Như vậy, chênh lệch giàu nghèo lên tới 100 lần.
C. ĐỊA VỊ LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI
Từ sự phân tích những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã rút ra kết luận chủ nghĩa đế quốc (hay chủ nghĩa tư bản hiện đại) “là một giai đoạn phát triển đặc biệt của chủ nghĩa tư bản”. Tính đặc biệt của nó biểu hiện trên các khía cạnh: 1. Chủ nghĩa đế quốc là CNTB độc quyền
- Độc quyền là cơ sở kinh tế sâu xa nhất của chủ nghĩa đế quốc. Đây là độc quyền TBCN, tức là phát sinh từ CNTB, từ nền sản xuất hàng hoá, cạnh tranh và mâu thuẫn với nền SX hàng hoá cạnh tranh. Đó chính là hình thức vận động mới của QHSX TBCN trong điều kiện tích tụ và tập trung tư bản và SX đã đạt đến một trình độ cao.
- Độc quyền biểu hiện trên các mặt: độc quyền về thị trường, giá cả, nguồn nguyên liệu,… từ đó thu lợi nhuận độc quyền.
- Độc quyền ra đời tự do cạnh tranh, song, không phủ định tự do cạnh tranh, mà tồn tại bên cạnh và bên trên tự do cạnh tranh. Do vậy, cạnh tranh trong thời đại độc quyền diễn ra hết sức gay gắt phức tạp, đa dạng. Vì không có và không thể có CNTB thuần tuý, bên cạnh các tổ chức độc quyến còn tồn tại nhiều xí nghiệp độc quyền với nhiều xí nghiệp vừa và nhỏ ngoài độc quyền và các thành phần kinh tế khác, nên cạnh tranh giữa xí nghiệp độc quyền với xí nghiệp độc quyền, xí nghiệp độc quyền với xí nghiệp ngoài độc quyền, các xí nghiệp và các đối tượng ngoài độc quyền với nhau luôn diễn ra. Chính sự cạnh tranh đó đã hạn chế phần nào sự thao túng của các tổ chức độc quyền.
- Độc quyền ra đời do kết quả của quá trình tích tụ, tập trung TB, dẫn đến quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, làm cho quá trình XH hoá sản xuất được thúc đẩy mạnh mẽ hơn, lại càng mâu thuẫn với chế độ chiếm hữu TLSX.
2. Chủ nghĩa đế quốc (hay CNTB hiện đại) là CNTB ăn bám thối nát
- Tính ăn bám của CNTB biểu hiện thông qua sự bóc lột (m) không chỉ trong nước mà còn mở rộng ta ngoài biên giới quốc gia trên phạm vi quốc tế thông qua xuất khẩu TB. Đồng thời với sự bành trướng của TB tài chính, khối lượng (m) tăng lên tới mức khiến cho một số nhà TB đã không cần phải quan tâm tới SX, mà bàn giao chức năng đó cho ngững người “làm thuê cao cấp” (hay còn gọi là sĩ quan cao cấp trong ngành công nghiệp) còn bản thân anh ta có thể sử dụng khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được đưa vào các ngân hàng lớn để kiếm lời thông qua việc kiếm lợi tức (cũng có nghĩa là xuất hiện “tầng lớp thực lợi” và tầng lớp này ngày càng tăng lên về số lượng). Đồng thời còn xuất hiện cả quốc gia thực lợi mà Hà Lan là một kiểu mẫu. Cùng với hiện tượng đó, còn có xu hướng kìm hãm kĩ thuật vì “Việc định ra những giá cả độc quyền, dù tạm thời chăng nữa cũng làm mất những nguyên nhân kích thích sự tiến bộ kĩ thuật, và do đó, cũng làm mất những nguyên nhân kích thích mọi sự tiến bộ khác, mọi bước tiến lên; do đó cũng đẻ ra những khả năng kinh tế làm sự kìm hãm một cách giả tạo sự tiến bộ kỹ thuật”, song, đây chỉ là một trong những xu hướng mà thôi, chứ không phải là xu hướng tuyệt đối vì “không bao giờ có thể tiêu diệt được một cách hoàn toàn và trong một thời gian rất lâu tình trạng cạnh tranh trên thị trường thế giới” vẫn tồn tại. - Trong thời đại tư bản tài chính, sự bóc lột thế giới được đẩy mạnh và đã đưa lại những lợi nhuận độc quyền cho một nhóm nước giàu có nhất, cho nên tạo ra khả năng KT để mua chuộc những “tầng lớp trên” trong giai cấp vô sản và nuôi dưỡng chủ nghĩa cơ hội, làm cho nó hình thành và được củng cố. Như vậy, “chủ nghĩa đế quốc có xu hướng tạo ra ngay cả trong công nhân, những hạng người được hưởng đặc lợi và có xu hướng tách những hạng người này ra khỏi quảng đại quần chúng vô sản”. Đó cũng là biểu hiện của sự thối nát.
- Xu hướng đình trệ và thối nát, xu hướng vốn có của chế độ độc quyền tác động thường xuyên trong nền KT TBCN, và trong một số ngành nào đó, trong một nước nào đó nó lại chiếm ưu thế trong một thời gian nhất định. Song, “nếu cho rằng xu hướng đi đến thối nát đó loại trừ sự phát triển nhanh chóng của CNTB, thì như thế là sai lầm. Trái lại, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, một số ngành nào đó, một số tầng lớp nào đó trong giai cấp tư sản, một số nước nào đó đều biểu hiện hoặc ít, hoặc nhiều, khi thì xu hướng này, khi thì xu hướng kia, và xét toàn bộ, chủ nghĩa tư bản phát triển vô cùng nhanh hơn trước, nhưng nói chung thì sự phát triển đó trở thành không đồng đều hơn trước như Lênin đã khẳng định.
3. Chủ nghĩa đế quốc là CNTB đang trong quá trình bị diệt vong
Trong quá trình phát triển, CNTB đã thực hiện xã hội hoá SX và quá trình này đạt tới đỉnh cao trong giai đoạn CNTB ĐQ, đặc biệt là trong điều kiện CNTB ĐQ nhà nước. Trong thời kỳ thống trị của mình, CNTB cũng đã tạo ra một sức sản xuất khổng lồ bằng tất cả các thế hệ loài người trước đó tạo ra (như C.Mác đã nhận xét). Chính sự phát triển LLSX trong CNTB, đặc biệt trong giai đoạn độc quyền và ở nấc thang CNTB ĐQ nhà nước đã tạo ra tiền đề vật chất đầy đủ nhất cho CNXH, là phòng chờ đi vào CNXH như Lênin đã dự báo.
- Chính sự phát triển của LLSX đã ngày càng mâu thuẫn gay gắt với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX, và biểu hiện về mặt XH là mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối kháng là giai cấp vô sản và giai cấp tư sản không chỉ trong biên giới quốc gia mà trên phạm vi quốc tế (do xuất khẩu TB, phân chia thị trường, lãnh thổ, bóc lột thuộc địa). Đồng thời, mâu thuẫn cơ bản đó được mở rộng, làm cho mâu thuẫn trong CNTB trở nên gay gắt không chỉ giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản trong phạm vi quốc gia mà còn quốc tế, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản nước này với nước khác trong việc tranh giành lợi ích ở thuộc địa cũ, phân chia thị trường vào những địa bàn thuận lợi.
- Dưới sự tác động của quy luật phát triển không đều, so sánh lực lượng giữa các nước đế quốc thay đổi là nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh đế quốc để phân chia lại thế giới đã chia xong. Điều đó đã làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, tạo tiền đề thuận lợi với CMVS. Do sự phát triển không đồng đều về kinh tế dẫn đến sự không đồng đều về chính trị, tạo ra sự chín mùi không đều nhau trong các nước đế quốc khác nhau, làm cho CMVS có thể nổ ra và giành thắng lợi trước hết trong một số nước TB, thậm chí trong một nước TBCN. Và thực tiễn Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, rồi sau đó là cách mạng nổ ra hàng loạt nước đưa đến sự hình thành hệ thống XHCN thế giới đã là bằng chứng lịch sử khẳng định sự đúng đắn của những kết luận khoa học của Lênin.
Tuy nhiên, thực tiễn cũng chỉ ra rằng, việc giai cấp vô sản lãnh đạo quần chúng nhân dân làm cách mạng giành chính quyền từ tay giai cấp tư sản đã khó, song cái khó hơn là củng cố và xây dựng thành công XHCN. Mọi sự nhận thức giản đơn, giáo điều, cực đoan…đều sẽ phải trả giá đằt.
- CNTB nhất định bị diệt vong, bị thay thế bằng chế độ xã hội cao hơn hẳn nó, đó là một quy luật lịch sử, là “sự phát triển lịch sử tự nhiên” như trường hợp CNTB đã thay thế chế độ phong kiến trong lịch sử. Tuy nhiên, quá trình thay thế này là một quá trình đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt, đầy khó khăn gian khổ trên phạm vi thế giới, không chỉ có thắng lợi mà có cả sự thất bại, thụt lùi tạm thời. Đó là biện chứng của lịch sử.
Ngày nay, CNTB vẫn còn tiềm năng để phát triển, đồng thời nó đang thích nghi với điều kiện lịch sự mới của thời đại - thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, mà nổi bậc là cách mạng thông tin. Song, cũng chính quá trình phát triển thích nghi đó càng tạo ra tiền đề vật chất đầy đủ hơn nữa cho CNXH, cũng như tạo ra ngày càng nhiều những nhân tố tự phủ định nó. Thực tiễn đó đã và đang khẳng định sự đúng đắn và những giá trị khoa học trong học thuyết Lênin về CNTB hiện đại.
Tóm lại: CNTB hiện đại là giai đoạn phát triển cao của CNTB
Từ sự phân tích ở trên chúng ta khẳng định rằng: CNTB hiện đại không phải là một PTSX mới của xã hội loài người, nó chỉ là một quá trình phát triển kế tiếp những thuộc tính cơ bản của CNTB. Bởi vậy, CNTB hiện đại chỉ là một giai đoạn phát triển cao hơn và phức tạp hơn của PTSX TBCN trong giai đoạn hiện nay mà thôi. Những đặc tính vốn có chưa phát triển đầy đủ ở giai đoạn trước thì đến nay đã bộc lộ rõ rệt hơn. Cụ thể:
- Các tổ chức TB độc quyền chiếm đại bộ phận TLSX, sức lao động và sản phẩm của xã hội nên giữ được địa vị thống trị trong đời sống kinh tế.
- Các tổ chức độc quyền TB ngày càng chiếm được nhiều nguyên vật liệu quan trọng nên càng tăng cường quyền lực của chúng.
- TBCT và đầu sỏ tài chính nắm trong tay quyền lực tối cao chi phối toàn bộ đời sống kinh tế – xã hội.
- Độc quyền trong lĩnh vực quan hệ kinh tế quốc tế hình thành trên cơ sở xuất khẩu TB phân chia thế giới về kinh tế và lãnh thổ, chia thế giới thành 2 bộ phận: một bên là các tổ chức độc quyền và các nước TB phát triển chi phối toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, một bên là các nước nước đang phát triển và bị lệ thuộc.
Như vậy, trong giai đoạn CNTB hiện đại thì các quy luật kinh tế của CNTB vẫn phát huy tác dụng.